
Ảnh minh họa - VNHN
Thống nhất nhận thức về Kỷ nguyên mới
Về nhận thức, Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi sự kiện với những đặc trưng quan trọng có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của một dân tộc, một quốc gia hay cả nhân loại. Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc…
Trong hành trình hướng đến tương lai phát triển, Kỷ nguyên mới là bước đi tất yếu, hợp quy luật vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong kỷ nguyên mới được xây dựng, mọi người dân Việt Nam đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh. Nhưng điều lớn lao ấy chỉ đạt được khi có sự đồng tâm nhất trí của toàn Đảng, toàn dân, và như vậy đất nước mới thực sự phát triển theo kịp thời đại và phát triển bền vững.
Bên cạnh những thách thức, ngày nay nước ta cũng có nhiều điều kiện thuận lợi, dư địa và không gian phát triển còn nhiều lợi thế, bao gồm: Vị thế về địa chính trị, địa kinh tế. Dân số hơn 100 triệu người đang là dân số vàng; nền văn hóa đặc sắc, hòa hiếu, bao dung độ lượng. Có Đảng lãnh đạo cầm quyền, đất nước ổn định. Triệu người như một, cùng khát vọng, ý chí, bản lĩnh, trí tuệ và sự đồng thuận. Lợi thế đi sau, đi tắt đón đầu, có thể được tránh sai lầm… Những yếu tố đó thực sự là lợi thế quan trọng để chúng ta tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Điều quan trọng hàng đầu mang tính bao trùm khi bước vào Kỷ nguyên mới là phải khơi dậy mạnh mẽ được hào khí dân tộc, tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược để đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.
Kỷ nguyên mới với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trải qua chặng đường 95 năm ra đời và lãnh đạo cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được khẳng định. Từ sự chọn lọc khách quan của lịch sử, cho tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong bối cảnh Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang tiếp tục đề ra đường lối chính trị đúng đắn, xứng đáng với vị trí dẫn đường mà nhân dân tin tưởng giao phó.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, Đảng cần tiếp tục tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đảm bảo kỷ luật Đảng; giữ vững mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng, bảo đảm nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp (nhất là những vấn đề liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…); cải cách triệt để thủ tục hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, vì lợi ích chung trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế… Làm sao để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam biến khát vọng thành hiện thực bằng những nỗ lực, nhiệt huyết trong từng hành động của mình.
Quan điểm của Đảng ta về “kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là sự đột phá về tư duy lý luận mang tầm chiến lược, phù hợp với khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới. Nội hàm của “kỷ nguyên mới” là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Khát vọng “vươn mình” trong “kỷ nguyên mới” vừa thể hiện ý chí của Đảng, vừa là khát vọng của toàn dân tộc, phản ánh sự hoà quyện giữa ý Đảng và lòng dân. Để hiện thực hóa khát vọng “vươn mình” trong kỷ nguyên mới, Đảng ta đã xác định phải phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tranh thủ cơ hội, quyết liệt thực hiện thắng lợi những định hướng chiến lược, như: đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm Đảng là người cầm lái vĩ đại đưa dân tộc ta tiến lên bứt phá, tăng tốc trong kỷ nguyên mới; tăng cường tính Đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”; tập trung tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất trong ba điểm nghẽn là thể chế; tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm đồng bộ, kết nối, thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả; thực hiện chuyển đổi số, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do CMCN 4.0 đem lại, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới; thực hiện đồng bộ các giải pháp định hướng chiến lược phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình; phấn đấu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt hơn 8% và những năm sau đó đạt tăng trưởng trên 02 con số, v.v.
Để tạo sự thống nhất về nhận thức, thông suốt về tư tưởng, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình triển khai và thực hiện các định hướng chiến lược nói trên, cần đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền về “kỷ nguyên mới” để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ta cả ở trong nước và ngoài nước hiểu rõ, quán triệt sâu sắc nội hàm, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như cơ sở hiện thực hóa khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới theo đúng quan điểm của Đảng. Cùng với đó, phải kiên trì, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề này, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, mà hệ thống các cơ quan báo chí, truyền thông, các cơ quan Tuyên giáo và Dân vận trên phạm vi cả nước phải là lực lượng tiên phong, đi đầu.
Để Kỷ nguyên mới đạt được những thành tựu như mục tiêu đã xây dựng, Đảng ta đã xác định những chủ trương mang tính chiến lược cần thực hiện, bao gồm: (1) Tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. (2) Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương. (3) Sơ kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” trong toàn hệ thống chính trị trình Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII; làm cơ sở có những quyết sách mới đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ theo định hướng đã được Trung ương 10 thống nhất.
Trên dưới một lòng cùng nhau hành động - Nguồn sức mạnh làm nên kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định từng bước chuyển đổi mô hình kinh tế sang “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là sự thay đổi mang tính cách mạng trong tư duy lãnh đạo, khi đưa thị trường và các lực lượng kinh tế tư nhân trở thành động lực chính cho phát triển, nhưng vẫn duy trì vai trò điều tiết của Nhà nước để bảo đảm sự công bằng và bảo vệ lợi ích của đại đa số người dân. Cũng từ sau Đại hội VI, nước ta tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại để mở rộng hợp tác quốc tế. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 là dấu mốc quan trọng, giúp tăng cường thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Cùng với đó, các hiệp định thương mại tự do (FTA), như: CPTPP, EVFTA, RCEP góp phần tích cực tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước. Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò của công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghệ cao và chế biến, chế tạo trong phát triển kinh tế bền vững; gắn với đó là sự đổi mới về chính sách, pháp luật nhằm khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ và sáng tạo trong sản xuất.
Nói như vậy không có nghĩa là không có khó khăn. Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thách thức không nhỏ từ biến đổi khí hậu, từ các vấn đề an sinh xã hội, từ những biến động bất lợi về kinh tế, chính trị trên thế giới… Trong khi phát triển bền vững trở thành yêu cầu thiết yếu và mang tính sống còn. Đó không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường, thúc đẩy công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Vì vậy, một trọng tâm quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam là chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh thông qua việc giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo.
Với các mục tiêu hướng đến, Việt Nam đã và đang triể khai thực hiện những kế hoạch mang tính chiến lược. Trong đó, có các chiến lược lớn, như Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2021-2030, các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc về phát triển bền vững khẳng định Việt Nam phấn đấu cho tăng trưởng kinh tế đồng thời chú trọng đến môi trường và công bằng xã hội; đã triển khai các kế hoạch hành động quốc gia về các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó nổi bật là các thành tựu trong việc giảm nghèo (SDG 1), bảo đảm giáo dục chất lượng (SDG 4) và thúc đẩy bình đẳng giới (SDG 5). Đặc biệt, Việt Nam đã giảm tỷ lệ nghèo từ 58,1% năm 1993 xuống 5,71% năm 2023; và đến hết tháng 9 năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo trên toàn quốc giảm 1%, còn ở mức 1,93%.
Việt Nam cũng đã cam kết thực hiện Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, với sự đầu tư mạnh mẽ vào năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và gió. Tính đến cuối năm 2023, tổng công suất các nhà máy điện mặt trời và điện gió của Việt Nam đạt gần 22.000MW, chiếm hơn 25% tổng công suất điện quốc gia (trong đó điện mặt trời đạt 18.000MW và điện gió đạt 3.800MW). Nước ta cũng đẩy mạnh việc phát triển kinh tế tuần hoàn, tập trung vào tái chế, tái sử dụng, giảm thiểu chất thải. Chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững cùng với Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 đã đặt ra các quy định quan trọng, như giảm thiểu chất thải nhựa và tăng cường tái chế tài nguyên…
Qua thực tiễn gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ sự vào cuộc quyết liệt và sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân ta trong triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhờ vậy mà Việt Nam chúng ta “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Từ một nước bị bao vây cấm vận, từ một nước bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận suốt 30 năm, đến năm 2023 Việt Nam đã trở thành nước có quy mô nền kinh tế tăng hơn 96 lần, từ 4,5 tỷ USD năm 1986 lên 430 tỷ USD năm 2023, đứng thứ 35 thế giới. Kế hoạch năm 2025 đặt ra: Mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên, quy mô nền kinh tế đạt trên 500 tỷ USD (dự kiến đứng thứ 30 trên thế giới, tăng 2 bậc), GDP bình quân đầu người năm 2025 đạt trên 5.000 USD… Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 30 nước; trong đó, có tất cả các thành viên Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và nhiều nước lớn (các nước G20) và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế; ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với hơn 60 quốc gia và nền kinh tế lớn, góp phần đưa Việt Nam nằm trong nhóm 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện; Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thu hút đầu tư nước ngoài, lọt vào nhóm 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Thế và lực của đất nước sau gần 40 năm đổi mới, sự đoàn kết, chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, thời cơ, thuận lợi mới, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng... là những điều kiện cần thiết nhất để đưa đất nước bước vào “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không đến một cách ngẫu nhiên, mà là thành quả của tinh thần đoàn kết, khát vọng đổi mới và sự nỗ lực không ngừng nghỉ của từng con người Việt Nam. Trong hành trình ấy, mỗi người dân là một mắt xích quan trọng, mỗi hành động nhỏ đều góp phần vào sự chuyển mình lớn lao của đất nước. Chúng ta – thế hệ hôm nay – cần giữ vững niềm tin, hun đúc lý tưởng, không ngừng học hỏi và sáng tạo, để biến khát vọng hùng cường thành hiện thực. Chỉ khi từng cá nhân biết sống có trách nhiệm, biết gìn giữ và phát huy giá trị dân tộc, thì tương lai rạng rỡ của đất nước mới thực sự được khơi mở. Và chính lúc ấy, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ không chỉ là một giấc mơ, mà là một hiện thực hiển hiện trong từng nhịp sống của đất nước hôm nay và mai sau./.
Ths Phạm Quang Hoà