
Ngành công nghiệp Halal vốn ít được thảo luận về mảng truyền thông, đặc biệt là về vấn đề phân tích cách thức đóng khung và đưa tin (Sodikin, 2020). Trước khi bắt đầu quá trình nghiên cứu, nhóm đã tìm kiếm và tham khảo các bài nghiên cứu đã được công khai trên các nền tảng, diễn đàn dành riêng cho các nghiên cứu khoa học, như ResearchGate, Sage Journal và Google Scholar. Dựa trên kết quả nhóm tổng hợp và đúc kết được, số lượng các bài nghiên cứu về mảng truyền thông và báo chí về Halal, hay cụ thể hơn là phương thức đưa tin của các Chính phủ về nền kinh tế và ngành công nghiệp Halal, vẫn còn hạn chế. Đặc biệt hơn, Việt Nam chưa có một nghiên cứu cụ thể về truyền thông Nhà nước dành cho ngành công nghiệp Halal, tạo ra một điểm thiếu sót trong tổng số lượng các bài nghiên cứu về ngành công nghiệp này tại Việt Nam.
Trong tiếng Ả Rập, Halal có nghĩa là “được phép” hay “hợp lệ”. Người Hồi giáo chỉ sử dụng những sản phẩm được Thượng đế (Allah) cho phép và thể hiện sự cho phép là sản phẩm đó được chứng thực Halal theo Kinh Qur'an và Luật Shari'ah của Hồi giáo (Halal Monitoring Committee, 2022). Ngành công nghiệp Halal là tổng thể các ngành công nghiệp phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cộng đồng người Hồi giáo, ví dụ như thực phẩm, đồ uống Halal, y tế, du lịch và chuỗi cung ứng đạt chuẩn Halal. Với dân số dự kiến đạt 2,2 tỷ người vào năm 2030, chiếm gần ¼ dân số thế giới, quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu đạt 7.000 tỷ USD trong năm 2022 và dự kiến tăng lên mức khoảng 10.000 tỷ USD trước năm 2028 (Vụ Trung Đông - Châu Phi, 2022).
Ngày 30/11/2020, Diễn đàn Tiềm năng thị trường thực phẩm Halal toàn cầu và cơ hội đối với Việt Nam” được tổ chức, đánh dấu lần đầu hợp tác giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn. Tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã có phát biểu về thị trường Halal rằng: “Thị trường thực phẩm Halal toàn cầu có tiềm năng rất lớn, phát triển với tốc độ nhanh tại khắp các châu lục. Nếu chúng ta tận dụng được những lợi thế như là mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế hàng đầu khu vực, vị trí địa lý gần châu Á với hơn 62% dân số Hồi giáo, tích cực triển khai Đề án phát triển với các nước Trung Đông – châu Phi nơi có hơn 30% dân số Hồi giáo thì sẽ giúp xuất khẩu của Việt Nam vững vàng tham gia vào thị trường sản phẩm Halal.” (VTV, 2020). Đây là nền móng đầu tiên cho thấy sự quyết tâm của Nhà nước trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp Halal trong nước và tìm kiếm cơ hội xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Halal quốc tế.
Thị trường Halal chủ yếu nằm ở các nước tập trung cộng đồng Hồi giáo đông đảo như Indonesia, Malaysia, Trung Đông và châu Phi. Tuy nhiên, các nước có thể sản xuất sản phẩm Halal lại không nhiều, trong khi nông sản Việt Nam hoàn toàn đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ bản của thị trường nên có nhiều cơ hội tiếp cận hơn (Ngọc Hà, 2022). Chính vì vậy, từ năm 2020, Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam đã bắt đầu xây dựng Tiêu chuẩn Halal (Ngọc Hà, 2022) như là một phần của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Hiện tại, Đề án "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030" (Văn phòng Chính phủ, 2023) đã được phê duyệt vào năm 2023, Việt Nam đã thành lập Trung tâm Halal trong năm 2024 và bước đầu xây dựng hệ thống Tiêu chuẩn quốc gia về Halal (Tuấn Anh, 2025), với gần 1000 doanh nghiệp được chứng nhận Halal và hơn 20 sản phẩm được xuất khẩu sang thị trường.
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường Halal quốc tế, Nhà nước đã và đang tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp để sản xuất sản phẩm đạt chuẩn Halal, thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp Halal trong nước. Ngày 18 tháng 02 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã ra công văn số 1311/VPCP-NN, trong đó đề cập đến mục “(5) Tiếp tục có các giải pháp tập trung mở cửa thị trường nông sản, nhất là thị trường thực phẩm Halal, ưu tiên xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam” (Văn phòng Chính phủ, 2025). Cùng với đó, Thông báo số 2/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ có đề cập đến các nội dung trong mục 4: “c) Tiếp tục thúc đẩy đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa chuỗi cung ứng; đẩy mạnh tiếp cận, khai thác những thị trường mới, nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác (thị trường Halal, Châu Phi, Nam Á, Châu Mỹ Latinh…)” và trong mục 5: “b) Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan: (i) đẩy mạnh tiếp cận, khai thác những thị trường mới, nhiều tiềm năng (thị trường Halal, châu Phi, Nam Á, châu Mỹ Latinh…)” (Văn phòng Chính phủ, 2025).
Sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước tới nền kinh tế Halal cũng đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu kinh tế và chính sách. Hiện nay, một số nghiên cứu về tầm quan trọng của nền kinh tế Halal tại Việt Nam đã được công khai, điển hình là “Tiềm năng phát triển thị trường thực phẩm Halal trên thế giới và cơ hội cho Việt Nam” (Thu Hoà, 2021) đã xác định tiềm năng tham gia thị trường Halal quốc tế nhờ các mặt hàng ngành nông sản; “Phát triển thị trường Halal dưới góc độ quản lý nhà nước” (Thanh Tâm, 2024) chỉ ra những cơ hội và thách thức của sự phát triển thị trường Halal, cũng như những đề xuất chính sách Nhà nước có thể thực hiện để hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp trong việc sản xuất sản phẩm Halal. Các bài nghiên cứu về thị trường Halal tại Việt Nam đã được công khai cho đến thời điểm hiện tại chủ yếu tiếp cận và phân tích từ góc độ kinh tế hoặc chính sách.
Xét trên phương diện Nhà nước, một trong những công cụ hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển của một ngành kinh tế chính là truyền thông (World Bank, 2002). Chính phủ Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, với báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và nhân dân, giúp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (Luật Báo chí, 2016). Ngày 27 tháng 12 năm 2024, Vụ Thông tin Báo chí (Bộ Ngoại giao) phối hợp cùng Vụ Trung Đông - Châu Phi đã tổ chức buổi nói chuyện về chuyên đề Halal cho các cơ quan báo chí tại Việt Nam. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong buổi nói chuyện đã đưa ra chỉ đạo đến các cơ quan báo chí Việt Nam cần tập trung vào các chủ đề như tiềm năng thị trường, cơ hội hợp tác và các chính sách phát triển ngành Halal tại Việt Nam (Ngọc Anh, 2024). Các cơ quan thông tin trong nước liên tục đăng tải nhiều bài viết, phân tích chuyên sâu, phỏng vấn các chuyên gia và đưa tin về các sự kiện liên quan đến lĩnh vực này, vậy nên một bài nghiên cứu về cách thức đưa tin của báo chí khi nhắc đến những nỗ lực tham gia nền kinh tế và sự phát triển của ngành công nghiệp Halal là cần thiết ở thời điểm hiện tại.
Nghiên cứu “Thị trường Halal của người Hồi giáo và vấn đề thương hiệu Halal ở Việt Nam” (Thanh Tâm, 2025) là nghiên cứu đã được công khai duy nhất có quan tâm đến một khía cạnh của truyền thông là xây dựng thương hiệu. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ nhắc đến vấn đề chưa có thương hiệu Halal Việt Nam vững mạnh, chưa đề cập đến vai trò và cách thức đưa tin của báo chí về nền kinh tế Halal, đồng thời tiếp cận chủ yếu từ hướng nghiên cứu chính sách hơn là nghiên cứu truyền thông. Chính vì vậy, cần có một nghiên cứu truyền thông của Việt Nam về cách đưa tin của báo chí đối với của nền kinh tế Halal, đặc biệt là thông qua các nền tảng báo điện tử dành cho độc giả quốc tế.
Bằng việc sử dụng lý thuyết đóng khung của Entman, nghiên cứu “Framing Analysis of the Indonesian government’s Halal Policy reports in the BBC mass media” (Sodikin, 2020) đã chỉ ra sự tồn tại của việc đóng khung trong cách chính phủ Indonesia đưa tin về chính sách Halal. Nghiên cứu “Media Coverage of Halal in Austrian Press: Analysis of Quality and Tabloid Outlets”(Mavi, 2024) tập trung vào sự đóng khung ngành Halal trên các phương tiện truyền thông, sử dụng khung tin tức để chỉ ra sự đối lập giữa cách đưa tin trung lập của báo chí chất lượng và tính tiêu cực của các tin bài trên báo chí nhỏ lẻ. Một bài nghiên cứu khác cũng sử dụng khung tin tức để phân tích cách báo chí của một quốc gia đưa tin về Halal là “A Study of News Media Frame on Halal crisis in Malaysia” (Yeeho, 2022). Nghiên cứu này đi sâu hơn về cách sử dụng khung của các tờ báo tại Malaysia, và đưa ra năm khung để phân loại các bài báo, trong đó có sự xuất hiện của khung Hệ quả Kinh tế (Economic Consequences Frame), một loại khung tin tức phù hợp cho việc đưa tin về một ngành công nghiệp và nền kinh tế mới.
Dựa trên những nghiên cứu mà nhóm đã tham khảo, đề tài nghiên cứu được nhóm thực hiện sẽ tập trung vào việc phân tích cách báo chí điện tử quốc tế của Việt Nam đưa tin về toàn bộ ngành công nghiệp Halal theo khung Hệ quả kinh tế. Hai đơn vị báo chí quốc tế được nhóm nghiên cứu lựa chọn để phân tích là báo VietnamPlus (Vietnamplus) và Vietnamnews. Đây là hai đơn vị báo chí được quản lý bởi Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), cơ quan thuộc Chính phủ và là cơ quan thông tin chính thức của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. TTXVN được quyền “công bố những quan điểm chính thống của Nhà nước về các vấn đề thời sự; chỉnh hướng những thông tin không phù hợp với lợi ích quốc gia; cải chính những thông tin sai lệch; khi cần thiết ra tuyên bố bác bỏ những thông tin có dụng ý xuyên tạc”. (VPCP, 2017).
Là hãng thông tấn duy nhất của cả nước, hoạt động từ ngày 15/9/1945, TTXVN thực hiện chức năng thông tấn nhà nước trong việc phát thông tin, văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước; cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; thu thập, phổ biến thông tin bằng các loại hình truyền thông, phục vụ các cơ quan thông tin đại chúng, công chúng và các đối tượng có nhu cầu ở trong và ngoài nước (TTXVN, 2017). Với hệ thống 63 cơ quan thường trú tại tất cả các tỉnh, thành trong cả nước và 30 cơ quan thường trú ở ngoài nước đặt tại tất cả 5 châu lục, TTXVN có lực lượng phóng viên tác nghiệp trên khắp mọi miền đất nước và tại hầu hết các địa bàn trọng điểm của thế giới. Trong TTXVN chia ra các cơ quan và các đầu báo trực thuộc, bao gồm báo điện tử Vietnamplus và Việt Nam News.
Báo Điện tử Vietnamplus là một đơn vị trực thuộc Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), có chức năng và nhiệm vụ là: Cung cấp các thông tin tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam, về các sự kiện thời sự chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra trên đất nước Việt Nam và thế giới theo quan điểm của Đảng – Nhà nước. Vietnamplus là đơn vị báo điện tử đầu tiên ở Việt Nam đồng thời cung cấp nội dung các ấn phẩm của TTXVN bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, Tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha phục vụ nhu cầu thông tin của độc giả trong và ngoài nước (TTXVN, 2017). Được triển khai và đi vào hoạt động từ ngày 13/11/2008, báo Điện tử Vietnamplus được áp dụng những công nghệ tiên tiến nhất của thời điểm đó, thể hiện nỗ lực chuyển đổi số và được kỳ vọng sẽ trở thành trang thông tin hàng đầu của Việt Nam, và là một kênh thông tin mới trực tiếp đến với người đọc, bên cạnh hàng chục sản phẩm thông tin khác của TTXVN.
Việt Nam News là tờ báo tiếng Anh quốc gia do TTXVN xuất bản, thực hiện chức năng thông tin đối ngoại về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, về tình hình Việt Nam và thế giới trên các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế xã hội phục vụ bạn đọc nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài cũng như bạn đọc nước ngoài nói chung và tạo cầu nối văn hoá giữa Việt Nam và thế giới (TTXVN, 2017). Được phát hành dưới dạng báo giấy từ năm 1991, Việt Nam News là tờ báo hoàn toàn bằng tiếng Anh của Thông tấn xã Việt Nam, cung cấp thông tin đầy đủ về nhiều lĩnh vực khác nhau, từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ ở mọi khu vực trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam News vẫn tiếp tục được phát hành dưới dạng báo giấy và trang báo điện tử.
Việc lựa chọn VietnamPlus và Vietnamnews là hoàn toàn phù hợp và có sự tương quan trực tiếp với việc nghiên cứu cách thức truyền tải thông tin của Nhà nước về nền kinh tế Halal. Đây là những công cụ truyền thông quốc tế chính thức, phản ánh chủ trương và thông điệp dự định của Chính phủ. Việc phân tích nội dung trên hai tờ báo trong khoảng thời gian đã lựa chọn sẽ giúp hiểu rõ chiến lược của Nhà nước và hoạt động của công cụ này. Việc hiểu rõ hoạt động của công cụ là bước nền tảng, bắt buộc trước khi có thể đi sâu vào việc phân tích cách thức sử dụng công cụ truyền thông để đưa tin về thị trường Halal của chính phủ.
Nghiên cứu của nhóm thực hiện không chỉ mô tả cách đóng khung mà còn cung cấp dữ liệu đầu vào thiết yếu để có thể đánh giá hiệu quả thực sự của một trong những công cụ quan trọng nhất trong bộ máy truyền thông đối ngoại của Việt Nam. Những tài liệu và trích dẫn được nêu ra ở trên sẽ là cơ sở cần thiết để xác định vấn đề cần nghiên cứu, kết hợp với những lý thuyết phù hợp được áp dụng để đặt ra các câu hỏi nghiên cứu tương ứng trong phần kế tiếp.
Lý thuyết đóng khung tin tức
Lý thuyết khung (Framing theory), bắt nguồn từ xã hội học (Goffman, 1974) và tâm lý học, cung cấp một lăng kính để hiểu cách các nguồn thông tin định hình nội dung nhằm ảnh hưởng đến cách người tiếp nhận diễn giải và đánh giá thông tin (Entman, 1993; Scheufele & Tewksbury, 2007). Goffman (1974) đã giới thiệu khái niệm "khung" (frames) như là những sơ đồ diễn giải mà cá nhân sử dụng để hiểu các trải nghiệm của mình, phân loại chúng theo các nguyên tắc tổ chức định hướng. Ông phân biệt giữa "khung cơ bản" – bao gồm khung tự nhiên (liên quan đến các hiện tượng vật lý) và khung xã hội (liên quan đến ý chí và mục đích của con người) – vốn là nền tảng cho sự hiểu ban đầu.
Trong nghiên cứu truyền thông, khung đề cập đến việc "lựa chọn và làm nổi bật" (Entman, 1993, tr. 52). Theo Entman: “Tạo khung là chọn lọc một số khía cạnh của thực tại được nhận thức và làm nổi bật chúng trong một văn bản truyền thông, theo cách nhằm thúc đẩy một cách hiểu về vấn đề, diễn giải nguyên nhân, đánh giá đạo đức và/hoặc đề xuất giải pháp đối với sự việc được mô tả” (Entman 1993, tr. 52). "Làm nổi bật" (salience) nghĩa là khiến thông tin trở nên dễ chú ý, có ý nghĩa hoặc dễ ghi nhớ hơn đối với khán giả.
Khung tin tức (news frame), vì vậy, không chỉ là vấn đề về những chủ đề nào được đưa tin (đặt chương trình nghị sự - agenda-setting), mà còn là cách những chủ đề đó được trình bày (Entman, 1993). Khung tin tức ngụ ý rằng các sự kiện và vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội được trình bày cho công chúng dưới dạng các cách nhìn nhận thay thế nhau về hành động (de Vreese, 2004). Chúng hoạt động như những nguyên tắc hoặc chủ đề tổ chức trong các bản tin, định hướng diễn giải bằng cách làm nổi bật một số yếu tố trong khi làm lu mờ những yếu tố khác.
Các nhà nghiên cứu đã xác định nhiều loại khung tin tức khác nhau. De Vreese (2005) phân biệt giữa khung theo vấn đề cụ thể (chỉ áp dụng cho những chủ đề nhất định) và khung chung (có thể áp dụng cho nhiều vấn đề, thời điểm và bối cảnh văn hóa khác nhau). Khung chung cung cấp cách tiếp cận có hệ thống hơn để phân tích các mô hình khung trong nhiều chủ đề khác nhau.
Dựa trên các nghiên cứu trước đó, Semetko và Valkenburg (2000) đã xác định năm loại khung chung phổ biến trong tin tức: xung đột, yếu tố con người, quy trách nhiệm, đạo đức, và hậu quả kinh tế. Trong đó, khung hậu quả kinh tế được định nghĩa là việc trình bày "một sự kiện, vấn đề hay hiện tượng dưới góc độ hậu quả kinh tế mà nó gây ra cho cá nhân, nhóm, tổ chức, khu vực hoặc quốc gia" (Semetko & Valkenburg, 2000, tr. 96). Khung này tập trung vào tác động tài chính, chi phí, lợi ích, lợi nhuận và thua lỗ.
Ngoài ra, về khung hậu quả kinh tế, các bản tin truyền hình sử dụng khung này ít hơn đáng kể so với báo in. Trong báo in, khung này xuất hiện nhiều hơn ở hai tờ báo được đánh giá là nghiêm túc và có uy tín nhất. Đối với tin tức truyền hình, không có sự khác biệt đáng kể giữa các kênh truyền hình trong việc sử dụng khung này. Việc khung hậu quả kinh tế xuất hiện phổ biến trong tin tức thường liên quan đến giá trị tin tức cao của tác động kinh tế (Graber, 1993, được trích dẫn trong Semetko & Valkenburg, 2000) và tính hữu ích của nó trong việc khiến vấn đề trở nên có liên quan hơn đối với khán giả (Gamson, 1992, được trích dẫn trong Valkenburg et al., 1999).
Chính phủ Việt Nam đóng khung Hậu quả kinh tế về ngành công nghiệp Halal
Định nghĩa của Entman (1993) nhấn mạnh bốn chức năng của khung: xác định vấn đề, chẩn đoán nguyên nhân, đưa ra phán xét đạo đức và đề xuất hướng xử lý. Trong số đó, chức năng “đề xuất hướng xử lý” đặc biệt liên quan đến nghiên cứu này. Tin tức, đặc biệt là từ các phương tiện truyền thông nhà nước khi bàn về các sáng kiến quốc gia, thường ngầm hoặc công khai thúc đẩy những hướng hành động hay giải pháp chính sách cụ thể. Như được quan sát trong phân tích sơ bộ các bài viết của Thông tấn xã Việt Nam (VNA), khung hậu quả kinh tế (bao gồm cả cơ hội và thách thức) thường được sử dụng để biện minh cho các chiến lược của chính phủ (ví dụ: chiến lược quốc gia về Halal đến năm 2030, thành lập HALCERT, các nỗ lực xúc tiến thương mại) và để kêu gọi hành động từ phía doanh nghiệp (ví dụ: đạt chứng nhận, đầu tư). Do đó, khung hậu quả kinh tế nhiều khả năng không chỉ mang tính mô tả mà còn có tính thuyết phục, nhằm thu hút sự ủng hộ đối với những định hướng kinh tế quốc gia trong lĩnh vực Halal.
Khung hậu quả kinh tế mô tả một hiện tượng, vấn đề hoặc tình huống khó xử dưới góc độ những ảnh hưởng kinh tế mà nó sẽ gây ra cho một cá nhân, một nhóm người, một doanh nghiệp hoặc một quốc gia. Hậu quả kinh tế thường mang tính trọng yếu, và tác động rộng lớn của một sự kiện là yếu tố then chốt tạo nên giá trị tin tức (Semetko & Valkenburg, 2000). Trong bối cảnh duy trì sự đoàn kết trong một đảng phái hoặc liên minh, hay giữ vững vị thế quốc tế của một quốc gia, đôi khi việc áp dụng một chính sách có thể không phải là lựa chọn tối ưu (Jayee Ho và cộng sự, 2022).
Ngành công nghiệp Halal được xác định là một ngành kinh tế. Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị Halal toàn quốc diễn ra ngày 22/10/2024: “Việt Nam mong muốn phát triển ngành Halal Việt Nam trở thành một ngành kinh tế mạnh, đưa Việt Nam trở thành một điểm đến không thể thiếu trong bản đồ Halal toàn cầu, một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng các sản phẩm, dịch vụ Halal trên thế giới”. 1(Báo Lao động (2024)) Hệ sinh thái Halal là một hệ sinh thái bao gồm nhiều lĩnh vực như thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, du lịch và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng theo các tiêu chuẩn Halal. Trong bối cảnh ngành kinh tế Halal là ngành rất tiềm năng và đang phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam coi đây là một cơ hội lớn để phát triển kinh tế, theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt chia sẻ tại Hội nghị “Phát huy nội lực, tăng cường hợp tác quốc tế đẩy mạnh phát triển ngành Halal Việt Nam”: “Chúng ta có lợi thế về nông nghiệp, công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đồng thời, Việt Nam còn là quốc gia có nền tảng vững chắc về khoa học công nghệ để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm Halal chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế”.2 (Báo điện tử Chính phủ (2024)).
1 Thanh Hà, Đưa Halal Việt Nam thực sự thành một ngành kinh tế mạnh, truy cập đường link: https://laodong.vn/thoi-su/dua-halal-viet-nam-thuc-su-thanh-mot-nganh-kinh-te-manh-1411185.ldo
2 Hoàng Giang, Nâng cao vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế Halal toàn cầu, truy cập đường link: https://shorturl.at/nqBxi
Khung hậu quả kinh tế được định nghĩa theo Semetko & Valkenburg (2000): “The economic consequences frame is defined as presenting "an event, problem, or issue in terms of the economic consequences it will have on an individual, group, institution, region, or country" (Semetko & Valkenburg, 2000, p. 96). “This frame focuses on financial impacts, costs, benefits, profits, and losses” (Tạm dịch: “Khung hậu quả kinh tế” được định nghĩa là việc trình bày “một sự kiện, vấn đề hoặc hiện tượng dưới góc độ những hậu quả kinh tế mà nó gây ra cho một cá nhân, nhóm, tổ chức, khu vực hoặc quốc gia (Semetko & Valkenburg, 2000, tr. 96). Khung này tập trung vào các tác động tài chính, chi phí, lợi ích, lợi nhuận và thua lỗ.)
Dựa trên cơ sở lý thuyết về đóng khung tin tức, khung hậu quả kinh tế và những dữ liệu vừa được đưa ra ở trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng có thể tồn tại khung hậu quả kinh tế (economic consequences frame) về ngành công nghiệp Halal. Qua đó, nhóm đặt ra câu hỏi nghiên cứu:
Câu hỏi nghiên cứu 1: “Chính phủ Việt Nam đã mã hoá đóng khung hậu quả kinh tế về ngành công nghiệp Halal trên hai trang báo điện tử quốc tế VietnamPlus và Vietnam News thông qua những cách thức nào?”
Bài nghiên cứu “A study of News Media frame on Halal crisis in Malaysia” của nhà nghiên cứu Jayee Ho và cộng sự đã tìm hiểu được cách mà các tờ báo đã mã hóa đóng khung thông qua nội dung chủ đề và hệ thống các từ khóa đại diện (Jayee Ho et al, p.20). Bài nghiên cứu của Jayee Ho và cộng sự đã tìm những bài báo liên quan đến bê bôi “Halal” được đăng tải trên các trang báo mà họ lựa chọn bằng cách tìm kiếm những từ khóa xuất hiện ở tiêu đề ví dụ như “Halal”, “Halal Crisis”, … Qua đó, nhóm nghiên cứu đặt ra giả thuyết:
Giả thuyết 1: “Các bài báo trên hai trang báo điện tử VietnamPlus và Vietnam News được đóng khung hậu quả kinh tế thông qua mã hoá bằng nội dung chủ đề và hệ thống các từ khóa đại diện”.
Theo định nghĩa của Entman về đóng khung tin tức: “Trong nghiên cứu truyền thông, đóng khung (framing) bao gồm “lựa chọn (selection) và làm nổi bật (salience)” (Entman 1993, p. 52) , và "Đóng khung là quá trình lựa chọn một vài khía cạnh của một hiện thực được tri nhận và làm cho chúng trở nên nổi bật hơn trong một văn bản truyền thông, qua đó thúc đẩy một cách xác định vấn đề, một cách diễn giải nguyên nhân, một sự đánh giá đạo đức, và/hoặc một đề xuất giải pháp cụ thể cho chủ thể được đề cập; Sự nổi bật (salience) có nghĩa là làm cho thông tin trở nên dễ nhận thấy hơn, ý nghĩa hơn, hoặc dễ ghi nhớ hơn đối với khán giả.” (Entman 1993, p.52). Từ những nhận định trên, câu hỏi nghiên cứu thứ hai mà nhóm nghiên cứu đặt ra là:
Câu hỏi nghiên cứu 2: Trong bối cảnh truyền thông nhà nước đưa tin về Halal, những khía cạnh kinh tế (chủ đề) nào được làm nổi bật nhất thông qua việc sử dụng khung hậu quả kinh tế trên VietnamPlus và Vietnam News?
Chức năng và nhiệm vụ của báo VietnamPlus được (Vietnam News Agency (2017)) thể hiện là “Thông tin tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, về các sự kiện thời sự chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra trên đất nước Việt Nam và thế giới theo quan điểm của Đảng - Nhà nước, đồng thời cung cấp nội dung các ấn phẩm của Thông tấn xã Việt Nam bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha phục vụ nhu cầu thông tin của độc giả trong và ngoài nước”3. Tờ báo Vietnam News thì được (Vietnam News Agency (2017)) giới thiệu “là tờ báo tiếng Anh quốc gia do Thông tấn xã Việt Nam xuất bản, thực hiện chức năng thông tin đối ngoại về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, về tình hình Việt Nam và thế giới trên các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế xã hội phục vụ bạn đọc nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài cũng như bạn đọc nước ngoài nói chung và tạo cầu nối văn hóa giữa Việt Nam và thế giới”4.
Điều 4 khoản 1 Luật báo chí Việt Nam năm 20165 đưa ra quy định: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân.” Điều 4 khoản 2 mục a, cũng chỉ ra: “Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân;”.
Dựa trên lý thuyết của de Vreese (2010) trong cuốn“Doing News Framing Analysis”: Khung hệ quả kinh tế thường được áp dụng bởi các nhà báo nhằm đưa ra những mệnh đề cả tích cực lẫn tiêu cực.
Dựa trên cơ sở về quy định của nhà nước về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí nói chung, sự khác nhau về chức năng nhiệm vụ và đối tượng độc giả hướng đến cùng với lý thuyết được đưa ra về thái độ đưa tin khi đóng khung hậu quả kinh tế trên các bài báo về ngành công nghiệp Halal, nhóm nghiên cứu tiếp tục đặt ra câu hỏi nghiên cứu thứ 3:
Câu hỏi nghiên cứu 3: Các bài báo của VietnamPlus và các bài báo của Vietnam News liệu có sự chênh lệch về tương quan tần suất các khía cạnh kinh tế (chủ đề) được nhấn mạnh và sự khác nhau về thái độ đưa tin trong cách thức đóng khung hậu quả kinh tế hay không?
Từ Câu hỏi nghiên cứu 3, có 2 khả năng có thể xảy ra:
Giả thuyết 2a: Có sự thống nhất về các khía cạnh kinh tế (chủ đề) được nhấn mạnh và thái độ đưa tin trong cách thức đóng khung hậu quả kinh tế giữa hai trang báo VietnamPlus và Vietnam News.
Giả thuyết 2b: Có sự khác biệt về các khía cạnh kinh tế (chủ đề) được nhấn mạnh và thái độ đưa tin trong cách thức đóng khung hậu quả kinh tế giữa hai trang báo VietnamPlus và Vietnam News.
3 Vietnam News Agency (2017) Introduction of Vietnamplus. Available at: https://dhtn.ttxvn.org.vn/donvi/bao-dien-tu-vietnamplus-480
4 Vietnam News Agency (2017) Introduction of Vietnamnews. Available at: https://dhtn.ttxvn.org.vn/donvi/bao-viet-nam-news-212
5 Luật báo chí 2016, Truy cập đường link:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-Bao-chi-2016-280645.aspx?tab=2
Việc xây dựng một khung khái niệm chi tiết, nhằm tạo ra một công cụ đóng vai trò là "Kim chỉ nam và đối trọng" (Guide and ballast) cho bài nghiên cứu. Đồng thời, làm rõ lập luận nghiên cứu và biện giải cho các phương pháp được lựa chọn (Ravitch & Riggan, 2011), bao gồm các chức năng, nguồn gốc của khung khái niệm (Leshem & Trafford, 2007) và có sự điều chỉnh để phù hợp với mục tiêu của đề tài, từ đó chuyển đổi các khía cạnh đóng khung thành các đơn vị có thể đo lường và phân tích được.
Để giải quyết câu hỏi nghiên cứu 1 thông qua việc chứng minh tính đúng của H1, phương thức chủ yếu được nhóm nghiên cứu sử dụng là Phân tích Định lượng Nội dung (Ravitch & Riggan, 2011), áp dụng với các bài báo được đăng trên các nền tảng báo điện tử Việt Nam tính từ năm 2021 đến hết Quý 1 năm 2025. Các mẫu thử được lựa chọn bằng việc tổng hợp các bài báo có chứa từ khoá “Halal” đã được đăng tải trên nền tảng báo điện tử tiếng Anh của hai trang báo VietnamPlus và Vietnam News trong thời gian này. Hệ thống từ khóa phụ bao gồm các cụm từ liên quan tới kinh tế như "export" (Xuất khẩu), "market" (Thị trường), "investment" (Đầu tư), "cost" (Chi phí), "benefit" (Lợi ích), "economic" (Kinh tế), "trade" (Thương mại), "tourism" (Du lịch), được sử dụng để phát triển hệ thống lọc và phân tích mẫu. Đơn vị phân tích là các bài báo riêng biệt.
Nhóm nghiên cứu thực hiện quá trình mã hoá chi tiết dựa trên khung khái niệm đã chọn. Quá trình mã hoá này phân biệt cụ thể giữa việc nhắc đến thoáng qua của các sự kiện kinh tế (Ví dụ: "the $10 trillion market" (Thị trường 10 nghìn tỷ USD) và việc sử dụng thông tin về sự kiện đó trong một khung cụ thể. Quá trình này được thiết kế để phân tích đồng thời sự xuất hiện và tính nổi bật cùng nội dung chung của các yếu tố kinh tế được nhắc đến trong các bài báo (Ví dụ: cách các sự kiện được nhắc đến trong bài báo để phân tích nội dung chủ đạo).
Việc mã hoá biến độc lập (IV) giúp tính toán sự xuất hiện và tính chủ đạo của khung Hệ quả kinh tế, vận dụng các câu hỏi được lấy từ nghiên cứu của Semetko và Valkenburg (1); Những chỉ số cụ thể (Từ khoá, cụm từ, chủ đề) được phát triển để mã hoá sự tập trung chính xác vào các hệ quả này (Ví dụ: "export value" (giá trị xuất khẩu), "market potential" (tiềm năng thị trường), "certification costs" (phí xác nhận), "investment" (đầu tư), "competition" (cạnh tranh), "FTA benefits" (lợi ích từ hiệp định thương mại tự do), "tourism revenue" (doanh thu du lịch); Hơn nữa, chức năng đóng khung theo lý thuyết của Entman được mã hoá dựa trên những thảo luận chủ đạo về hệ quả kinh tế đã được trình bày. Quá trình mã hoá cũng bao gồm đánh giá giọng điệu tổng quan (Tích cực, tiêu cực, trung lập hoặc cân bằng) và xác định các nguồn trích dẫn chính có liên quan tới hệ quả kinh tế.
Biến phụ thuộc được phát triển để nắm bắt tổng thể cách đóng khung các nội dung truyền thông liên quan tới khả năng duy trì nền kinh tế. Quá trình mã hoá bao gồm phương thức tiếp cận đa chiều để phân tích các chủ đề chiếm đa số và giọng văn trình bày các bài báo, đánh giá tông giọng tổng quan và thái độ được thể hiện đối với các khía cạnh kinh tế, xác định tác nhân chính chịu trách nhiệm cho các kết quả kinh tế. Phương pháp phân tích chủ đề giúp phân loại các thông điệp chính về các vấn đề kinh tế, cung cấp góc nhìn sâu sắc hơn về giọng điệu cốt lõi được trình bày. Việc phân tích tông giọng giúp đánh giá thái độ được biểu đạt, đặc biệt dành cho các góc nhìn tích cực, tiêu cực và trung lập khi nhắc về sự bền vững của nền kinh tế. Cuối cùng, các yếu tố cấu thành giúp xác định đối tượng trung tâm hoặc chịu trách nhiệm cho các biểu hiện kinh tế là chính phủ, các tập đoàn và doanh nghiệp lớn hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs).
Nghiên cứu sẽ áp dụng các phương pháp phân tích số liệu để thử nghiệm các mối quan hệ được giả thuyết giữa các biến độc lập (IVs), biến phụ thuộc (DVs), và biến điều chỉnh. Sự lựa chọn khung thời gian phân tích là vô cùng cần thiết. Việc so sánh cách truyền thông đưa tin trước và sau các sự kiện chính sách quan trọng cho phép kiểm nghiệm khả năng biến đổi của việc đóng khung để phản hồi những hành động của chính phủ hoặc sự phát triển của ngành công nghiệp.
Bảng 1: Các chỉ số đóng khung Hệ quả Kinh tế
Loại chỉ số | Ví dụ cụ thể | Nền tảng lý thuyết |
Từ khóa/cụm từ | economic, economic consequence/impact, export value, trade turnover, market, potential, market size, cost, benefit, profit, loss, investment, GDP, jobs, growth, competition, FTA, tourism, revenue, tariff. | Semetko & Valkenburg (2000) 60 (1) Entman (1993) 46 (2) |
Chủ đề | Cost-benefit analysis, Halal market growth forecasts, Impact of Halal certification on production costs, Influence of the Halal industry on agricultural/aquaculture exports, Role of Free Trade Agreements (FTAs) in accessing Halal markets, Investment in Halal infrastructure, Economic comparison with trading partners/competitors, Impact of Halal tourism on local revenue | Semetko & Valkenburg (2000) 60 (1) |
Câu hỏi mã hóa |
(e.g., government policy, market forces, specific company actions)?
other countries? | Semetko & Valkenburg (2000) (1); Entman(1993) (2) |
Các nguồn tin được trích dẫn | national leaders, government agencies and ministries, business leaders and executives, industry association representatives, economists, financial analysts, Halal certification body representatives, and representatives of international markets and organizations. | Entman (1993) (2); |
Sau đó, nhóm nghiên cứu áp dụng những biện pháp phân tích nội dung do Krippendorff đề xuất (Krippendorff, 2019), bao gồm việc chi tiết hóa quy trình từ việc xác định các đơn vị phân tích mang thông tin thái độ trong văn bản, lượng hóa các đặc điểm của chúng dựa trên các khía cạnh từ vựng, vị trí và cường độ biểu đạt, đến việc tổng hợp các đánh giá này thành một điểm số thái độ tổng thể cho bài báo.
Lý do cho việc này, nhóm đưa ra lập luận rằng những khía cạnh kinh tế được làm nổi bật nhất thông qua việc sử dụng khung hậu quả kinh tế sẽ được thể hiện thông qua tần suất thái độ của các bài báo khi thể hiện khung hậu quả kinh tế đó. Trong đó, việc kết luận một bài báo có thái độ ra sao sẽ được lượng hóa và chuẩn hóa thành chuỗi các công thức được xây dựng và tính toán dựa trên các indicator từ bảng 1 trên và dựa trên lý thuyết nền tảng về lượng hóa dữ liệu của Krippendorff.
Bước đầu tiên và cơ bản là "đơn vị hóa" (unitizing) văn bản, tức là xác định các "đơn vị ghi nhận/mã hóa" (recording/coding units) mà từ đó thái độ sẽ được suy luận (Krippendorff, 2019, p. 104). Đối với bài nghiên cứu của nhóm, những đơn vị được xác định chính là những Indicator của bảng 1 bao gồm: Từ khóa (Keyword), các từ hoặc cụm từ đơn lẻ được xác định là mang sắc thái rõ rệt, là những đơn vị cơ bản, dễ nhận diện. Tiếp theo là đoạn văn bao gồm các "đơn vị cú pháp" (syntactic distinctions) hoặc "đơn vị chủ đề" (thematic distinctions) chứa đựng một hoặc nhiều từ khóa, hoặc tự thân nó thể hiện một ý nghĩa thái độ nhất quán đồng thời bao gồm các Themes và Topics được thiết lập dựa trên sự phân bổ và sắp xếp từ khóa. Những “Đơn vị chủ đề” này thể hiện bao quát nội dung bài báo và được xác định dựa trên việc xây dựng câu từ và đoạn văn (Krippendorff, 2019, p. 111). Câu hỏi đặt ra cho việc nghiên cứu chính là nếu đã xác định được các đơn vị được mã hóa, vậy cách thức thể hiện đơn vị mã hóa sẽ quyết định thái độ tổng thể của bài báo như thế nào? Nhóm nghiên cứu phân tích những câu hỏi (Encoding question) này thành ba khía cạnh: Giá trị Từ vựng (V), Trọng số vị trí (P) và Hệ số cường độ (I), đây sẽ trở thành những biến số (Variable) cấu thành nên công thức tổng thể nhằm xác định Thái độ của bài báo (Krippendorff, 2019, p. 161, 162, 163). Các biến số này liên kết chặt chẽ với nhau xuyên suốt bài báo, thể hiện rõ giá trị thái độ của một đơn vị mã hóa. Cách thiết lập và xác định giá trị của các biến số được thực thi như sau:
Giá trị từ vựng (Trọng số từ vựng - V), với mỗi yếu tố báo thái độ sẽ được gán cho một giá trị số. Điều này được đưa ra dựa trên lý thuyết đưa ra bởi Krippendorff thông qua áp dụng thang đo “Scale” để lượng hóa một thuộc tính định tính (Krippendorff, 2019, p. 143-145) và được quy đổi điểm theo 3 giá trị: +1 (Tích cực), -1 (Tiêu cực) và 0 (Trung lập).
Trọng số vị trí (P) là vị trí của đơn vị mã hóa trong cấu trúc bài báo (Ví dụ tiêu đề, mở đầu, thân bài, kết luận…) được coi là “đơn vị bối cảnh” (Context unit) và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tầm quan trọng của thái độ (Krippendorff, 2019, p. 105). P sẽ được gán theo giá trị nhân vì không phản ánh trực tiếp thái độ mà sẽ góp phần phản ánh độ lớn (magnitudes) của đơn vị mã hóa (Krippendorff, 2019, p. 143-145). P được quy đổi theo 3 giá trị: x2 (Tiêu đề/mở đầu - tác động mạnh đến ấn tượng người đọc), x1 (Thân bài - nội dung chuẩn), x1.5 (Kết luận - Chứa thông điệp tổng kết)
Hệ số cường độ (I) là mức độ mạnh mẽ của ngôn ngữ diễn đạt được lượng hóa bằng các hệ số, cũng là một dạng đo lường "độ lớn" và được coi là một dạng đơn vị bối cảnh (Krippendorff, 2019, p. 105) sẽ được gán theo các giá trị nhân do phản ánh độ lớn (Magnitudes) của đơn vị mã hóa (Krippendorff, 2019, p. 143-145). I được quy đổi theo 3 giá trị: x1.5 (Rất mạnh (Superlatif)), x1 (Bình thường), x0.5 (Giảm nhẹ).
Sau khi xác định được giá trị của V, P và I. Nhóm đưa ra công thức xác định sắc thái của bài như sau:
![]() |
Đối chiếu kết quả Điểm thái độ:
- Thái độ tích cực: Điểm > +0.2
- Thái độ trung lập: -0.2 ≤ Điểm ≤ +0.2
- Thái độ tiêu cực: Điểm < -0.2
Mục tiêu của công thức chính là đưa ra điểm thái độ của từng bài báo dựa trên từng biến riêng lẻ nhưng có sự liên kết chặt chẽ. Đi từ tích của 3 biến V, P, I, phép nhân tạo ra một liên kết giữa ba khía cạnh của một đơn vị mã hóa, giả định rằng chúng có tác động tương hỗ để hình thành điểm thái độ của đơn vị đó. Qua đó, phép tổng liên kết điểm thái độ của các đơn vị riêng lẻ lại với nhau để phản ánh thái độ chung. Đây là một hình thức "tổng hợp dữ liệu" được đề cập trong chương 10 của tài liệu về Lý thuyết phân tích dữ liệu của Krippendorff (Krippendorff, 2019, p. 196-214). Cuối cùng, phép chia cho tổng số đơn vị được mã hóa tạo sự chuẩn hóa và cho phép so sánh các bài báo khác nhau và đưa ra một "chỉ số" (index) thái độ trung bình dựa trên việc mô hình hóa các "tương quan ổn định" (stable correlations) mà nhà nghiên cứu giả định tồn tại giữa các đặc điểm văn bản và thái độ được biểu hiện (Krippendorff, 2019, p. 40-42).
Dựa trên kết quả thu được từ việc áp dụng khung lý thuyết nhằm xác định thái độ của bài báo, nhóm nghiên cứu tiến hành thống kê và đưa ra bảng tần suất về thái độ và từ đó làm cơ sở để phân tích, đánh giá và đưa ra nhận định trả lời cho RQ2.
Kết quả từ Diễn đàn về Tiềm năng và Cơ hội của Thị trường Thực phẩm Halal Toàn cầu dành cho Việt Nam cuối năm 2020 đã khẳng định được tầm nhìn của Việt Nam trong việc tiếp cận và phát triển thị trường Halal một cách nghiêm túc, sâu rộng hơn (VTV, 2020). Với việc xác định được chức năng của hai tờ báo VietnamPlus và Vietnam News là cơ quan báo chí thuộc hệ thống báo chí Nhà nước, đại diện cho tiếng nói, quan điểm của Nhà nước Việt Nam, các bài báo trên hai trang báo điện tử này về ngành Halal được đăng tải từ sau Diễn đàn 2020 đến nay là đối tượng chính mà nhóm nghiên cứu tìm hiểu. Các bài báo này đảm bảo tính chính thống, tính cập nhật cao của thông tin và có nội dung bám sát với chủ đề nghiên cứu.
Dữ liệu trong bài viết này bao gồm tất cả các bài báo viết bằng tiếng Anh từ hai cơ quan báo chí trực tuyến khác nhau, gồm VietnamPlus và Vietnam News, trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2021 đến ngày 31 tháng 3 năm 2025. Tất cả các bài báo đều được trích xuất từ trang web chính thức của các cơ quan báo chí này, có thể truy cập công khai qua Internet. Các bài viết được lựa chọn thông qua tìm kiếm bằng các từ khóa như “Halal” và “Halal Industry”. Tổng cộng có 562 bài báo trong thời gian này có chứa các từ khóa trong tiêu đề hoặc nội dung, đã được đưa vào tập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu.
Dựa trên hệ thống tiêu chí và chỉ báo để xác định khung hệ quả kinh tế, như đã được trình bày trong khung lý thuyết nghiên cứu, các bài viết sẽ được phân tích thống kê và phân loại nhằm tạo ra hai kết quả độc lập để trả lời hai câu hỏi nghiên cứu và kiểm chứng các giả thuyết đã được đưa ra. Trong đó, kết quả đầu tiên để trả lời cho RQ1 sẽ được thể hiện thông qua các biểu đồ thống kê những yếu tố được mã hóa xuất hiện trong các bài báo nằm trong 562 mẫu đã tổng hợp đối với từng trang báo, cùng với tỷ lệ phần trăm tần suất xuất hiện của các dữ liệu được mã hóa trong toàn bộ mẫu thu thập.
Kết quả tiếp theo sẽ phân loại các bài báo thành ba nhóm khung diễn giải: Tích cực, Tiêu cực và Trung lập. Tần suất bài báo thuộc ba nhóm này cũng sẽ được tính toán riêng cho từng tờ báo điện tử. Để thực hiện điều này, nhóm nghiên cứu sử dụng chính kết quả đầu tiên là các dữ liệu được mã hoá về khung hậu quả kinh tế trên các bài báo, lượng hóa các dữ liệu này vào công thức xử lý đã được thiết lập trước đó bằng cách áp dụng lý thuyết của Krippendorf để xác định được thái độ chủ đạo của từng bài báo.
Với khối lượng dữ liệu lớn, đa dạng thể loại, nhóm nghiên cứu quyết định thiết lập một hệ thống tự động hoá phân tích và xử lý dữ liệu nhằm đảm bảo tính nhất quán của công việc.
Để phù hợp với câu hỏi nghiên cứu đã nêu ra trong phần trước, phần mềm chính mà nhóm nghiên cứu phân tích sẽ cần phải đáp ứng được các nhu cầu chính như sau:
Đầu tiên, phải phân tích toàn bộ số bài báo từ trong khoảng trong khoảng thời gian đã đề ra, thông qua yếu tố dựa trên conceptual framework để từ đó chứng minh được khung hậu quả kinh tế có tồn tại trong số báo đã đề ra, thỏa mãn yêu cầu được đưa ra trong conceptual framework.
Tiếp theo, thống kê các giá trị cần có cho Công thức tính điểm thái độ được nêu Mô hình đánh giá thái độ đưa tin, bao gồm Giá trị từ vựng, Trọng số vị trí, Hệ số cường độ, rồi từ chính những yếu tố này đúc kết thành giá trị, rồi từ những giá trị này thực hiện tính điểm thái độ. Sau đó, tiến hành tính hệ số alpha Krippendorff của hai mã hóa viên từ data trong bảng liệt kê để chứng minh giá trị nghiên cứu, từ đó trả lời câu hỏi: liệu có sự thống nhất về trong cách thức đóng khung hậu quả kinh tế giữa hai trang báo VietnamPlus và Vietnam News?
Cuối cùng, thống kê tần suất xuất hiện của các chủ đề kinh tế xuất hiện ở hai báo dưới dạng phần trăm (percentage), trả lời câu hỏi: liệu có sự thống nhất về chủ đề đưa tin giữa hai trang báo Vietnamplus và Vietnam News
Đi từ những yêu cầu trên, nhóm nghiên cứu đã thiết kế một công cụ tự động hóa quy trình phân tích nội dung văn bản theo hướng định lượng, với trọng tâm của công cụ là phân tích mã hóa đóng khung dựa trên conceptual framework đã đề ra, phân tích quan điểm (sentiment analysis), tức là xác định thái độ tích cực, tiêu cực hay trung lập trong văn bản liên quan đến một chủ đề cụ thể (trong trường hợp này là các khía cạnh kinh tế), và phân tích khung (framing analysis), nhằm nhận diện các góc độ hay quan điểm chính mà văn bản sử dụng để trình bày thông tin.
Phần mềm được thiết kế sẽ tiến hành phân tích các bài báo dựa trên việc lọc các bài báo theo yêu cầu được đưa ra trong conceptual framework, bao gồm lọc keywords, themes, encoding question cho cả hai báo theo khung hậu quả kinh tế, hiển thị kết quả dưới dạng bảng và biểu đồ theo phần trăm, chứng minh hai tờ báo đã thực hiện mã hóa thông tin dựa trên khung hậu quả kinh tế. Nhóm nghiên cứu cũng thực hiện trên nhiều mã hoá viên để đảm bảo reliability của kết quả nghiên cứu. Cũng từ đây, dựa vào thông tin liệt kê chủ đề vừa thu thập sẽ trả lời câu hỏi liệu có sự thống nhất về chủ đề đưa tin giữa hai trang báo Vietnamplus và Vietnam News
Để tính điểm thái độ, phần mềm sẽ tính số điểm dựa trên hai mã hóa viên:
Mã hóa viên 1: Dựa trên một "bảng mã hóa" chi tiết do nhà nghiên cứu cấu hình – bao gồm một từ điển các thuật ngữ kinh tế với điểm số quan điểm định sẵn, trọng số cho vị trí của thuật ngữ trong bài (ví dụ, tiêu đề có thể quan trọng hơn thân bài), và các yếu tố cường độ – Mã hóa viên 1 sẽ xác định các "đơn vị quan điểm" (thường là câu hoặc mệnh đề) và mã hóa các thuộc tính của chúng (thuật ngữ chính, vị trí, cường độ).
Mã hóa viên 2: Thực hiện hoạt động mã hóa độc lập so với Mã hóa viên 1. Mã hóa viên 2 này sẽ tiến hành quá trình mã hóa tương tự với mã hóa viên 1.
Sau quá trình mã hóa kép này, phần mềm sẽ tính toán tổng điểm số quan điểm cho từng đơn vị dựa trên mã hóa của mỗi Mã hóa viên . Các điểm số này sau đó được phân loại thành 3 mục: Tích cực, tiêu cực và trung lập. Sau đó, phần mềm triển khai phương pháp "đối chiếu" thông qua việc sử dụng phép đo Hệ số Alpha của Krippendorff. Trong trường hợp này, nó đo lường mức độ đồng thuận giữa hai người mã hóa viên. Giá trị Alpha cao sẽ cho thấy quy trình mã hóa hoạt động một cách nhất quán, chứng minh độ tin cậy và tính giá trị của chương trình. Ngưỡng chấp nhận được theo thang đo của Krippendorff là trên 0.67, nếu hệ số Alpha đạt dưới ngưỡng này thì dữ liệu được coi là không đáng tin cậy.
Hoàn thành việc vận hành hệ thống nói trên sẽ cho ra các kết quả nghiên cứu mong muốn.
Kết quả
Trước khi tiến hành phân tích, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp tất cả các bài viết có chứa từ khóa "Halal" hoặc "ngành công nghiệp Halal" được xuất bản trên các trang web VietnamPlus và Vietnam News từ ngày 1 tháng 1 năm 2021 đến ngày 31 tháng 3 năm 2025. Tổng cộng có 562 bài viết đáp ứng tiêu chí lựa chọn, bao gồm 391 bài viết từ VietnamPlus và 171 bài viết từ Vietnam News. Nhóm nghiên cứu đã liệt kê các tiêu đề và đính kèm link tương ứng cho từng bài viết và sắp xếp vào bảng tính. Những dữ liệu này đóng vai trò là nguồn dữ liệu đầu vào cho chương trình phân tích hoạt động.
Bảng 2: Thống kê từ khóa của VietnamPlus
Từ nhận dạng | Số bài báo chứa | Tổng số lần xuất hiện | Tỷ lệ bài báo (%) |
investment | 240 | 661 | 61.381074 |
economic | 231 | 574 | 59.079284 |
market | 229 | 528 | 58.567775 |
potential | 204 | 327 | 52.173913 |
tourism | 174 | 377 | 44.501279 |
growth | 111 | 186 | 28.388747 |
trade turnover | 35 | 39 | 8.951407 |
benefit | 26 | 27 | 6.649616 |
revenue | 21 | 28 | 5.37084 |
competition | 17 | 19 | 4.34783 |
gdp | 16 | 19 | 4.09207 |
fta | 11 | 13 | 2.8133 |
export value | 10 | 12 | 2.55755 |
cost | 7 | 9 | 1.79028 |
jobs | 5 | 5 | 1.27877 |
loss | 1 | 1 | 0.25575 |
market size | 1 | 2 | 0.25575 |

Biểu đồ 1: Tỷ lệ bài viết có từ khóa trên VietnamPlus
Bảng 3: Thống kê từ khóa của Vietnam News
Từ nhận dạng | Số bài báo chứa | Tổng số lần xuất hiện | Tỷ lệ bài báo (%) |
market | 111 | 285 | 64.912281 |
economic | 110 | 307 | 64.327485 |
investment | 109 | 363 | 63.742690 |
potential | 102 | 187 | 59.649123 |
tourism | 84 | 231 | 49.122807 |
growth | 57 | 140 | 33.333333 |
trade turnover | 22 | 27 | 12.865497 |
benefit | 15 | 18 | 8.771930 |
competition | 14 | 28 | 8.187135 |
gdp | 10 | 14 | 5.847953 |
fta | 9 | 26 | 5.263158 |
revenue | 8 | 10 | 4.678363 |
export value | 4 | 11 | 2.339181 |
cost | 1 | 1 | 0.584795 |
jobs | 1 | 1 | 0.584795 |

Biểu đồ 2: Tỷ lệ bài viết có từ khóa trên Vietnam News
Dữ liệu được trình bày trong Bảng 2 và Bảng 3 cho thấy rằng các từ khóa được liệt kê trong Bảng 1—tương ứng với các chỉ số của khung hậu quả kinh tế—có mặt trong hầu hết các bài viết từ cả VietnamPlus và Vietnam News, ngoại trừ các từ khóa "hậu quả/tác động kinh tế", "lợi nhuận", và "thuế quan". Một số từ khóa như "thua lỗ" và "quy mô thị trường" chỉ xuất hiện trong các bài viết của VietnamPlus và không có trong các bài viết của Vietnam News.
So sánh Hình 1 và Hình 2 cho thấy rằng trên cả hai nền tảng, các từ khóa như "đầu tư", "kinh tế", "thị trường", và "tiềm năng" nằm trong số những từ có tần suất xuất hiện cao nhất trong các bài viết—vượt quá 50% đối với VietnamPlus và 59% đối với Vietnam News. Từ khóa "du lịch" xuất hiện trong hơn 40% bài viết từ cả hai nguồn, trong khi "tăng trưởng" có mặt trong gần 30% bài viết, cũng đánh dấu nó là một từ khóa quan trọng với sự đại diện đáng kể trong toàn bộ tập dữ liệu.
Điều này cho thấy sự tương đồng mạnh mẽ trong các từ khóa xếp hạng cao nhất theo tần suất, gợi ý một sự tập trung ngôn ngữ nhất quán trong cả hai nguồn tin tức. Tuy nhiên, những biến đổi nhỏ trong xếp hạng và tỷ lệ được quan sát thấy—ví dụ, "thị trường" xếp hạng cao nhất trong Vietnam News, trong khi "đầu tư" dẫn đầu trong VietnamPlus.
Bảng 4: Thống kê chủ đề của VietNamplus
Từ nhận dạng | Số bài báo chứa | Tỷ lệ bài báo (%) |
Investment in halal infrastructure | 250 | 63.938619 |
Influence of the halal industry on agricultural/aquaculture exports | 73 | 18.670077 |
Halal market growth forecasts | 69 | 17.647059 |
Impact of halal tourism on local revenue | 48 | 12.276215 |
Role of free trade agreements (ftas) in accessing halal markets | 45 | 11.508951 |
Impact of halal certification on production costs | 40 | 10.230179 |
Biểu đồ 3: Tỷ lệ chủ đề của VietnamPlus Bảng 5: Thống kê chủ đề của VietnamNews
Từ nhận dạng | Số bài báo chứa | Tỷ lệ bài báo (%) |
Investment in halal infrastructure | 118 | 69.0058 |
Influence of the halal industry on agricultural/aquaculture exports | 41 | 23.9766 |
Halal market growth forecasts | 40 | 23.3918 |
Role of free trade agreements (ftas) in accessing halal markets | 39 | 22.807 |
Impact of halal certification on production costs | 31 | 18.1287 |
Impact of halal tourism on local revenue | 31 | 18.1287 |
Hình 4: Tỷ lệ chủ đề của VietnamNews - Những điểm đáng chú ý
Như được thể hiện trong Bảng 4 và Bảng 5, tất cả các chủ đề được xác định trong Bảng 1 đều xuất hiện trong toàn bộ các bài viết được phân tích từ cả VietnamPlus và Vietnam News.
Theo Hình 3, chủ đề "Đầu tư vào cơ sở hạ tầng halal" là nổi bật nhất trong VietnamPlus, xuất hiện trong 63,94% tổng số bài viết được phân tích (N = 250). Các chủ đề khác xuất hiện với tần suất thấp hơn đáng kể: "Tác động của ngành công nghiệp halal đối với xuất khẩu nông/thủy sản" ở mức 18,67% (N = 73), và "Dự báo tăng trưởng thị trường halal" ở mức 17,65% (N = 69). Các chủ đề bổ sung như "Tác động của du lịch halal đối với doanh thu địa phương" (12,28%), "Vai trò của các FTA" (11,51%), và "Ảnh hưởng của chứng nhận halal đối với chi phí sản xuất" (10,23%) được thể hiện ở tỷ lệ thấp hơn.
Hình 4, phản ánh dữ liệu từ Vietnam News, cũng cho thấy "Đầu tư vào cơ sở hạ tầng halal" là chủ đề chiếm ưu thế, chiếm 69,01% (N = 118) số bài viết. Tuy nhiên, tần suất của một số chủ đề khác cao hơn một chút so với VietnamPlus: "Tác động của ngành công nghiệp halal đối với xuất khẩu nông/thủy sản" ở mức 23,98%, "Dự báo tăng trưởng thị trường halal" ở mức 23,39%, và "Vai trò của các FTA" ở mức 22,81%.
Trên cả hai cơ quan báo chí, chủ đề "Đầu tư vào cơ sở hạ tầng halal" xuất hiện trong một tỷ lệ đáng chú ý lớn hơn các bài viết, nổi bật rõ rệt so với các chủ đề được xác định khác.
Bảng 6: Thống kê câu hỏi mã hóa của VietnamPlus
Từ nhận dạng | Số bài báo chứa | Tỷ lệ bài báo (%) |
Does the article discuss the impact on employment, economic growth, or the overall economy? | 201 | 51.406650 |
Does the article attribute economic outcomes (positive or negative) to a specific cause (e.g., government policy, market forces, specific company actions)? | 180 | 46.035806 |
Does the article mention financial gains or losses? | 139 | 35.549872 |
Does the article compare Vietnam's economic situation in the Halal sector with that of other countries? | 87 | 22.250639 |
Does the article propose any economic solutions or interventions (e.g., investments, subsidies, policy changes)? | 62 | 15.856777 |
Biểu đồ 5: Tỷ lệ bài viết có câu hỏi mã hóa trên VietnamPlus Bảng 7: Thống kê câu hỏi mã hóa của VietnamNews
Từ nhận dạng | Số bài báo chứa | Tỷ lệ bài báo (%) |
Does the article discuss the impact on employment, economic growth, or the overall economy? | 95 | 55.555556 |
Does the article attribute economic outcomes (positive or negative) to a specific cause (e.g., government policy, market forces, specific company actions)? | 91 | 53.216374 |
Does the article mention financial gains or losses? | 71 | 41.520468 |
Does the article compare Vietnam's economic situation in the Halal sector with that of other countries? | 48 | 28.070175 |
Does the article propose any economic solutions or | 43 | 25.146199 |
interventions (e.g., investments, subsidies, policy changes)? |
|
|
![]() |
Biểu đồ 6: Tỷ lệ phần trăm bài viết có câu hỏi mã hóa trên VietnamNews
Kết quả Thống kê và Phân tích Khung định hướng
Các kết quả thống kê rút ra từ Bảng 6, Bảng 7, và các mối tương quan tỷ lệ được quan sát trong Hình 5 và Hình 6 cho thấy rằng, trên cả hai tờ báo, câu hỏi mã hóa "Bài viết có thảo luận về tác động đến việc làm, tăng trưởng kinh tế, hoặc nền kinh tế tổng thể không?" có tần suất cao nhất (VietnamPlus: 51,41%; VietnamNews: 55,56%). Tiếp theo là câu hỏi "Bài viết có quy kết các kết quả kinh tế (tích cực hoặc tiêu cực) cho một nguyên nhân cụ thể (ví dụ: chính sách chính phủ, lực lượng thị trường, hành động của công ty) không?" (VietnamPlus: 46,04%; VietnamNews: 53,22%).
Cả hai cơ quan truyền thông đều thể hiện xu hướng nhất quán trong việc nhấn mạnh tác động kinh tế tổng thể và quy kết nguyên nhân. VietnamNews cho thấy tần suất cao hơn một chút trong hầu hết các loại câu hỏi mã hóa so với VietnamPlus, gợi ý một cách trình bày phân tích kinh tế có thể chi tiết hoặc đa dạng hơn. Ví dụ, câu hỏi "Bài viết có đề xuất bất kỳ giải pháp hoặc can thiệp kinh tế nào không?" xuất hiện trong 25,15% bài viết của VietnamNews so với 15,86% trong VietnamPlus.
Dựa trên việc xác định các chỉ số được mã hóa trong các bài viết, nhóm nghiên cứu đã có thể trả lời RQ1 và xác nhận tính hợp lệ của H1. Sự thống trị của chủ đề "Đầu tư vào cơ sở hạ tầng halal" trong cả hai tờ báo rõ ràng phản ánh sự tập trung vào việc chuẩn bị và tiềm năng phát triển của ngành Halal tại Việt Nam. Tần suất đáng kể này, so với các chủ đề khác, đại diện cho một biểu hiện cốt lõi của lý thuyết khung định hướng hậu quả kinh tế. Ngoài chủ đề trung tâm này, các chủ đề hỗ trợ hoặc vệ tinh (ví dụ: xuất khẩu, tăng trưởng thị trường, FTA) được tổ chức một cách có cấu trúc trong các bài viết, định hình việc tiếp nhận thông điệp của độc giả. Việc xây dựng một chủ đề trung tâm với các chủ đề vệ tinh, tất cả đều hướng tới một mục tiêu truyền thông chung, minh họa cách thức lựa chọn và nhấn mạnh khung định hướng được sử dụng—do đó giải quyết RQ2.
Việc sử dụng thường xuyên các từ khóa như "đầu tư", "kinh tế", "thị trường", và "tiềm năng" trong cả hai cơ quan truyền thông cho thấy sự lặp lại và phản ánh liên tục nội dung, định hình khung nhận thức của khán giả về ngành công nghiệp Halal tại Việt Nam. Đồng thời, việc bỏ qua hoặc giảm thiểu các từ khóa có ý nghĩa tiêu cực như "chi phí", "thua lỗ", hoặc "cạnh tranh" giúp chuyển hướng sự chú ý khỏi những thách thức hoặc bất lợi tiềm ẩn, khuếch đại các hiệu ứng tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực trong việc đưa tin về các chủ đề liên quan đến Halal.
Về mặt câu hỏi mã hóa, sự thống trị của các cuộc thảo luận xung quanh "tác động đến việc làm và tăng trưởng kinh tế" và "quy kết nguyên nhân của các kết quả kinh tế" (mỗi cái vượt quá 46%) thể hiện một cách tiếp cận khung định hướng mang tính giải thích và hướng trách nhiệm, tích cực xây dựng các diễn giải về cả tác động và nguyên nhân. Trong khi đó, tần suất tương đối thấp hơn của các tham chiếu đến "so sánh với các nước khác" hoặc "đề xuất giải pháp" cho thấy rằng việc định hướng tin tức hiện tại tập trung nhiều hơn vào động lực nội bộ và hành động trong nước của Việt Nam thay vì các cuộc tranh luận so sánh hoặc chính sách rộng lớn hơn.
Nhìn chung, mức độ tương đồng cao trong việc ưu tiên các chủ đề trung tâm và thuật ngữ chính giữa hai tờ báo phản ánh một chiến lược khung định hướng nhất quán và có chủ ý được thực hiện bởi chính phủ Việt Nam trên các nền tảng truyền thông quốc tế của mình. Như đã thể hiện qua phân tích ở trên, có một mô hình rõ ràng trong việc lựa chọn chủ đề, với "Đầu tư vào cơ sở hạ tầng halal" nhận được sự nhấn mạnh đáng kể hơn so với các chủ đề khác. Song song với đó, các từ khóa cốt lõi có ý nghĩa tích cực được sử dụng trên cả hai cơ quan truyền thông đều mang tính phát triển, lạc quan và hướng tới tương lai, với tần suất lặp lại cao. Việc gần như không có các từ khóa được định hướng tiêu cực càng hỗ trợ việc mã hóa một thông điệp thống nhất. Điều này chứng minh sự tồn tại của một khung hậu quả kinh tế được xây dựng nhúng trong toàn bộ nội dung tin tức này.
Sử dụng các chương trình được phát triển tùy chỉnh, nghiên cứu đã trình bày các phát hiện từ một phân tích cảm xúc toàn diện của 527 bài viết với các điểm số được tính toán dẫn đến một thái độ. Phân tích được thực hiện bởi hai người mã hóa độc lập, được đào tạo nghiêm ngặt để đánh giá các bài viết theo nhiều khía cạnh: Lựa chọn thuật ngữ, Phân loại vị trí, Đánh giá cường độ, Chấm điểm từ vựng. Rõ ràng từ kết quả đầu ra của chương trình rằng phân tích đã thể hiện sự nhất quán mạnh mẽ giữa hai người mã hóa, với tất cả các khía cạnh được đo lường đều vượt qua đánh giá độ tin cậy, dao động từ "Chấp nhận được" đến "Tốt" như bảng dưới đây cho thấy:
Bảng 8: Đánh giá độ tin cậy dữ liệu dựa trên hệ số Alpha Krippendorff
Giá trị đánh giá | Giá trị Alpha Krippendorff | Kết quả đánh giá |
Term (nominal) | 0.709 | Có thể sử dụng |
Position (nominal) | 0.833 | Good |
Intensity (nominal) | 0.704 | Có thể sử dụng |
Vocabulary Score (nominal) | 0.719 | Có thể sử dụng |
Unit Score (interval) | 0.756 | Có thể sử dụng |
Giá trị này cho thấy rằng các phương pháp đang được sử dụng có tính nhất quán đủ để tạo ra những phát hiện đáng tin cậy, với các khía cạnh vị trí là yếu tố nổi bật, nhận được sự đồng thuận đặc biệt mạnh mẽ giữa các người mã hóa.
Tính nhất quán trong thái độ đưa tin
Phân tích cảm xúc tổng hợp của tất cả 527 bài viết được thể hiện trong Hình 7 cho thấy một định hướng tích cực rõ rệt trong việc đưa tin của truyền thông:
![]() |
Hình 7: Tỷ lệ phân bố thái độ đưa tin của VietnamPlus và Vietnam News
Hình ảnh trực quan xác nhận sự nhất quán đáng chú ý trong phân bố cảm xúc giữa hai nguồn tin tức. Cả hai nguồn đều thể hiện sự ưu tiên mạnh mẽ cho việc đưa tin tích cực, với VietnamPlus cho thấy cảm xúc tích cực cao hơn một chút ở mức 73,0% so với Vietnam News ở mức 70,8%. Sự khác biệt này chỉ là 2,2 điểm phần trăm. Việc đưa tin trung tính cũng cho thấy xu hướng tương tự, với Vietnam News có tỷ lệ nội dung trung tính cao hơn một chút ở mức 26,7% so với VietnamPlus ở mức 24,6%, chênh lệch 2,1 điểm phần trăm. Đáng chú ý nhất, cả hai nguồn tin đều báo cáo tỷ lệ đưa tin tiêu cực giống hệt nhau là 2,5%, một tỷ lệ cực kỳ thấp.
Sự khác biệt trực quan đáng kể về chiều cao cột giữa việc đưa tin tích cực và tiêu cực củng cố phát hiện của phân tích định lượng về sự tương đồng đáng kể trong các cách tiếp cận đưa tin. Sự nhất quán này gợi ý các cách tiếp cận biên tập chung thay vì các lựa chọn biên tập độc lập của các cơ quan truyền thông.
Đánh giá điểm thái độ đưa tin
Các người mã hóa độc lập, sử dụng công thức Điểm số Thái độ và dữ liệu thu thập được, đã tạo ra điểm số trung bình lần lượt là 0,459 và 0,451. Điểm số trung bình tổng thể là 0,455, trong khi điểm số trung vị kết hợp là 0,417. Sự đồng thuận trong điểm số trung bình giữa các người mã hóa càng xác nhận độ tin cậy của phương pháp đánh giá cảm xúc. Theo các tiêu chí diễn giải được xác định trước, cả điểm số trung bình kết hợp 0,455 và điểm số trung vị kết hợp 0,417 đều nằm trong phân loại thái độ tích cực (Điểm số > +0,2). Do đó, cảm xúc tổng thể được xác định trong nghiên cứu này là tích cực rõ ràng.
Kết quả quyết định ủng hộ giả thuyết H2a trong việc trả lời Câu hỏi Nghiên cứu 3. Phân tích cho thấy sự nhất quán đáng kể trong việc báo cáo thái độ đối với hậu quả kinh tế giữa VietnamPlus và Vietnam News. Cả hai cơ quan truyền thông đều thể hiện phân bố cảm xúc tương tự đáng chú ý: VietnamPlus báo cáo 73,0% đưa tin tích cực so với 70,8% của Vietnam News, 24,6% và 26,7% đưa tin trung tính tương ứng, và tỷ lệ đưa tin tiêu cực giống hệt nhau là 2,5%. Những khác biệt nhỏ này—chỉ 2,2 điểm phần trăm trong đưa tin tích cực và 2,1 điểm phần trăm trong đưa tin trung tính—cùng với việc đưa tin tiêu cực giống hệt nhau, mạnh mẽ gợi ý một mô hình đưa tin nhất quán thay vì các lập trường biên tập độc lập. Sự nhất quán này ngụ ý các thực hành báo cáo được chuẩn hóa trên các cơ quan này khi đưa tin về các chủ đề kinh tế, gợi ý các ưu tiên và quan điểm chung trong việc trình bày truyền thông của họ về những hậu quả kinh tế này.
Kết luận và thảo luận
Dựa trên kết quả thu được trong suốt quá trình nghiên cứu, nhóm đã thành công xác định phương pháp định khung được sử dụng bởi Chính phủ Việt Nam để xây dựng khung Hậu quả Kinh tế cho ngành công nghiệp Halal, như được thể hiện trong hai cơ quan truyền thông VietnamPlus và Vietnam News, trong giai đoạn từ 2021 đến đầu năm 2025. Điều này đã đạt được bằng cách áp dụng phương pháp phân tích nội dung định lượng, xây dựng khung khái niệm, và phát triển hệ thống phân tích và xử lý dữ liệu tự động.
Để giải quyết câu hỏi nghiên cứu về khía cạnh kinh tế được Chính phủ nhấn mạnh, nhóm đã phân loại và tính toán tần suất của các từ khóa chung, cũng như phân loại bài viết theo nội dung chủ đề. Thông qua phương pháp này, nghiên cứu xác định rằng các từ khóa như "Đầu tư", "Kinh tế", "Thị trường", và "Tiềm năng" xuất hiện thường xuyên nhất trong cả hai tờ báo. Ngoài ra, các bài viết có chủ đề xung quanh "Đầu tư vào cơ sở hạ tầng Halal" chiếm đa số. Điều này làm nổi bật nỗ lực có chủ ý của Chính phủ Việt Nam trong việc nhấn mạnh đầu tư vào ngành công nghiệp Halal và làm nổi bật tiềm năng của ngành này như một động lực kinh tế mới—do đó thu hút sự chú ý của cả các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đối với triển vọng tăng trưởng dài hạn của nó.
Trong việc so sánh mối tương quan giữa các mô hình báo cáo, sự nhấn mạnh vào đầu tư kinh tế, và tông điệu đưa tin trên hai tờ báo, nghiên cứu kết luận rằng có sự phù hợp rõ ràng và nhất quán trong việc làm nổi bật các khía cạnh kinh tế được nhà nước ưu tiên. Tông điệu chủ yếu tích cực được xác định trong cả hai cơ quan thông qua quá trình định lượng dữ liệu có hệ thống nhấn mạnh một mục tiêu chung: thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp Halal và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư.
Là nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam khám phá việc định khung trong việc đưa tin truyền thông trực tuyến về ngành công nghiệp Halal, một số hạn chế là không thể tránh khỏi. Nghiên cứu hiện tại chỉ tập trung vào một khung Hậu quả Kinh tế duy nhất trong khuôn khổ rộng lớn hơn của lý thuyết định khung tin tức. Không giống như nghiên cứu "A Study of News Media Frame on Halal Crisis in Malaysia" (Jayee Ho và cộng sự, 2022), khám phá năm khung khác nhau, nghiên cứu này chưa mở rộng phạm vi của mình đến một loạt khung rộng hơn. Nó cũng chỉ tập trung vào các nền tảng truyền thông trực tuyến quốc tế và không phân tích các loại đưa tin khác. Hơn nữa, do ngành công nghiệp Halal vẫn còn tương đối mới ở Việt Nam, có số lượng hạn chế các học giả chuyên ngành và tài nguyên học thuật trong lĩnh vực này. Do đó, nghiên cứu thiếu nền tảng rộng lớn hơn để mở rộng và không được hưởng lợi từ sự giám sát học thuật chuyên gia trong quá trình thực hiện.
Tuy nhiên, một trong những điểm mạnh chính của nghiên cứu này nằm ở việc điều tra sâu sắc các thực hành định khung trên một cỡ mẫu tương đối lớn (562 bài viết). Với kết quả thu được, nghiên cứu này đặt nền tảng cho nghiên cứu tương lai về truyền thông chính phủ, đặc biệt liên quan đến ngành công nghiệp Halal. Cụ thể, các phát hiện có thể góp phần khẳng định sự tồn tại của chiến lược truyền thông truyền thông do chính phủ dẫn dắt liên quan đến phát triển Halal, hoặc phục vụ như một bổ sung có giá trị cho việc hoạch định chính sách tương lai trong ngành này. Ngoài ra, phương pháp định khung hậu quả kinh tế được xác nhận bởi nghiên cứu có thể được áp dụng cho các nghiên cứu phân tích phản ứng của công chúng đối với thông tin được định khung bởi chính phủ về Halal trong truyền thông, do đó thông báo các chiến lược truyền thông hiệu quả hơn để tăng cường sự tăng trưởng và nhận thức của công chúng về ngành công nghiệp Halal ở Việt Nam.
Hơn nữa, cách tiếp cận phân tích dữ liệu được phát triển trong nghiên cứu này có thể phục vụ các nỗ lực nghiên cứu tương lai về lý thuyết định khung, đặc biệt là các nghiên cứu tập trung vào định khung tin tức, phân tích tông điệu, và làm nổi bật các nguồn thông tin cụ thể thông qua việc tích hợp lý thuyết định khung và các phương pháp phân tích nội dung định lượng.
Tóm lại, nghiên cứu này cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về cách Chính phủ Việt Nam truyền đạt tiềm năng của ngành công nghiệp Halal thông qua định khung hậu quả kinh tế trong các nền tảng truyền thông trực tuyến quốc tế của mình. Nó đánh dấu một điểm khởi đầu quan trọng cho nghiên cứu tương lai trong lĩnh vực này, mở ra một lĩnh vực phong phú với cả cơ hội và thách thức cho các học giả tìm cách khám phá thêm các khía cạnh truyền thông của ngành công nghiệp Halal ở Việt Nam.
Nhóm tác giả: Trần Phú Thụy, Lã Việt Hoàng, Trần Ngọc Khánh, Nguyễn Đức Hưng, Nguyễn Cao Kỳ Dương
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Báo Lao động [Lao dong Newspaper] (2024), Đưa Halal Việt Nam thực sự thành một ngành kinh tế mạnh [Establishing Vietnam’s Halal Sector as a Robust Economic Industry], 22 October. Available at: https://laodong.vn/thoi-su/dua-halal-viet-nam-thuc-su-thanh-mot-nganh-kinh-te-manh-14111
85.ldo (accessed 1 April 2025)
Báo Thế giới và Việt Nam [The World and Vietnam Report] (2022), Đặc san Halal [Special issue:Halal]. Available at: https://cms.thainguyen.vn/documents/13418123/13421855/%C4%90%E1%BA%B7c+san+H alal+s%E1%BB%91+1.2023.pdf/8628c0aa-16ab-4ce4-bf27-caf3835d8237 (accessed 18
April 2025)
Báo điện tử Chính phủ [Government News] (2024), Nâng cao vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế Halal toàn cầu [Enhancing Vietnam's Position in the Global Halal Economy], 22 October. Available at: https://baochinhphu.vn/nang-cao-vi-the-cua-viet-nam-trong-nen-kinh-te-halal-toan-cau-102241022160028855.htm#:~:text=(Chinhphu.vn)%20%2D%20B%E1%BA%B1ng,tr%C3%AAn
%20th%E1%BB%8B%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20qu%E1%BB%91c%20t%E1%B A%BF.&text=Ng%C3%A0y%2022/10%2C%20B%E1%BB%99%20Ngo%E1%BA%A1i,H u%E1%BB%B3nh%20Th%C3%A0nh%20%C4%90%E1%BA%A1t%20cho%20hay.
(accessed 22 April 2025)
De Vreese (2005), News Framing: Theory and Typology,Availableat: https://www.researchgate.net/publication/250888488_News_Framing_Theory_and_Typology
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ [Science and Technology Forum] (2022), Sản phẩm Halal
- Tiếp cận từ khía cạnh tiêu chuẩn hoá [Halal products - An approach from the standard aspect]. Available at: https://vjol.info.vn/index.php/khcn/article/view/66675/56271 (accessed 31 March 2025)
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ [Science and Technology Forum] (2025), Tăng cường năng lực chứng nhận để phát triển ngành Halal tại Việt Nam [Increase Standardizing Capability to Develop Vietnam’s HalalIndustry].Availableat: https://vjol.info.vn/index.php/khcn/article/view/107078/90059 (accessed 31 March 2025)
Entman, Robert (1993), Framing: Toward Clarification of a Fractured Paradigm,Availableat: https://www.researchgate.net/publication/209409849_Framing_Toward_Clarification_of_A_ Fractured_Paradigm (accessed 3 February 2025)
Goffman, Erving (1974), Frame Analysis: An Essay on the OrganizationofExperience, Available at:
https://books.google.com.vn/books/about/Frame_Analysis.html?id=XBpmAAAAIAAJ&redi r_esc=y (accessed 3 February 2025)
Halal Monitoring Committee (2022), Definition of Halal. Available at: https://halalhmc.org/resources/definition-of-halal/ (accessed 1 February 2025)
JournalNX (2020), Framing Analysis of the Indonesian government’s Halal policy reports in the BBC mass media. Available at: https://media.neliti.com/media/publications/336739-framing-analysis-of-the-indonesian-gove r-f8b5a515.pdf (accessed 24 April 2025)
Krippendorff , K. (2019). Content Analysis: An Introduction to Its Methodology (4th ed.). SAGE Publications, Inc. Available at: https://doi.org/10.4135/9781071878781 (accessed 13 April 2025)
Leshem et al (2007), Overlooking the Conceptual Framework. Available at: https://www.researchgate.net/publication/225083888_Overlooking_the_conceptual_framewo rk (accessed 6 March 2025)
Luật báo chí 2016 [The Press Law of Vietnam, enacted in 2016], Available at: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-Bao-chi-2016-280645.aspx?tab=2
Medien Journal (2024), Media Coverage of Halal in Austrian Press: Analysis of Quality and Tabloid Outlets. Available at: https://netlibrary.aau.at/download/pdf/11279527.pdf (accessed 22 April 2025)
Neuman (2020), Social Research Methods: Qualitative and Quantitative Approaches.
Available at
https://www.researchgate.net/publication/279187391_Social_Research_Methods_Qualitative
_and_Quantitative_Approaches (accessed 15 April 2025)
Ravitch et al. (2011) How Conceptual Frameworks Guide Research, Available at. https://uk.sagepub.com/en-gb/asi/reason-rigor/book241777 (accessed 22 April 2025)
Scheufele & Tewksbury (2007), Framing, Agenda Setting, and Priming: The Evolution of Three Media Effects Models, Available at: https://www.researchgate.net/publication/224818478_Framing_Agenda_Setting_and_Primin g_The_Evolution_of_Three_Media_Effects_Models (accessed 6 March 2025)
Semetko and Valkenburg (2000), Framing European Politics: A content Analysis of Press and Television News, Available at: https://www.researchgate.net/publication/227670569_Framing_European_Politics_A_Conten t_Analysis_of_Press_and_Television_News (accessed 9 March 2025)
Tạp chí Con số và Sự kiện [Journal of Statistics and Events] (2021), Tiềm năng phát triển thị trường thực phẩm Halal trên thế giới và cơ hội cho Việt Nam [Global Halal food market development potential and the opportunity for Vietnam]. Available at: https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/166309/1/CVv126K2S022021 028.pdf (accessed 1 March 2025)
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc [Journal for Ethnic Minorities Research] (2024), Phát triển thị trường Halal dưới góc độ quản lý nhà nước [Halal Market Development in Vietnam from the Perspective of State Management]. Available at: https://ncdt.hvdt.edu.vn/index.php/journal/article/view/288/299 (accessed 1 March 2025)
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc [Journal for Ethnic Minorities Research] (2025), Thị trường Halal của người Hồi giáo và vấn đề thương hiệu Halal ở Việt Nam [Halal Market of Muslims and Halal Branding Issues in Vietnam]. Available at: https://ncdt.hvdt.edu.vn/index.php/journal/article/view/440/398 (accessed 1 March 2025)
Universiti Tunku Abdul Rahman (2022), A Study of News Media Frame on Halal crisis in Malaysia. Available at: http://eprints.utar.edu.my/5801/1/fyp_PR_2023_JH.pdf (accessed 11 March 2025)
Valkenburg (1999), Developing a scale to assess three styles of television mediation: “Instructive mediation”, “restrictive mediation” and “social coviewing”, Available at: https://www.researchgate.net/publication/254298990_Developing_a_scale_to_assess_three_s tyles_of_television_mediation_Instructive_mediation_restrictive_mediation_and_social_covi ewing (accessed 14 March 2025)
Văn phòng Chính phủ [Vietnamese Government Office] (2017), Nghị định 118/2017/NĐ-CP chức năng nhiệm vụ quyền hạn cơ cấu tổ chức của Thông tấn xã Việt Nam, Available at: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-dinh-118-2017-ND-CP-chuc-n ang-nhiem-vu-quyen-han-co-cau-to-chuc-cua-Thong-tan-xa-Viet-Nam-365720.aspx (accessed 27 March 2025)
Văn phòng Chính phủ [Vietnamese Government Office] (2025), Công văn số 1311/VPCP-NN V/v thực hiện các giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ nông dân sau Hội nghị đối thoại với nông dân năm 2024 [Official Note No. 1311/VPCP-NN on Carrying out Measures to Promote and Support Farmers after the 2024 Government - Farmers Dialogue Conference], Available at: https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Lao-dong-Tien-luong/Cong-van-1311-VPCP-NN-2025-t huc-hien-giai-phap-ho-tro-nong-dan-sau-Hoi-nghi-doi-thoai-voi-nong-dan-643678.aspx (accessed 27 March 2025)
Văn phòng Chính phủ [Vietnamese Government Office] (2025), Thông báo số 2 /TB-VPCP về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với các Đại sứ/Trưởng Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài về tổng kết công tác ngoại giao kinh tế năm 2024 và trọng tâm năm 2025 nhằm tạo đà bứt phát cho tăng trưởng [Official Announcement No. 2/TB-VPCP on the Conclusion of PM Pham Minh Chinh at the PM - Ambassadors Conference on Reviewing 2024 Economic Diplomacy and Orienting Major 2025 Targets to Prepare for Developmental Breakthrough], Available at: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Thong-bao-2-TB-VPCP-2025-ket-luan-cua- Thu-tuong-ve-tong-ket-cong-tac-ngoai-giao-kinh-te-638702.aspx (accessed 28 March 2025)
Vietnam News Agency (2017), Introduction of Vietnamnews. Available at: https://dhtn.ttxvn.org.vn/donvi/bao-viet-nam-news-212 (accessed 3 March 2025)
Vietnam News Agency (2017), Introduction of Vietnam News Agency. Available at: https://dhtn.ttxvn.org.vn/tintuc/gioi-thieu-ttxvn-14 (accessed 3 March 2025)
Vietnam News Agency (2017), Introduction of Vietnamplus. Available at: https://dhtn.ttxvn.org.vn/donvi/bao-dien-tu-vietnamplus-480 (accessed 3 March 2025)
Vietnamplus (2024), Tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển ngành Halal Việt Nam [Increase international cooperation to develop Vietnam’s Halal industry], Available at: https://www.vietnamplus.vn/tang-cuong-hop-tac-quoc-te-de-phat-trien-nganh-halal-viet-nam- post963092.vnp (accessed 1 March 2025)
Vietnam’s International Newspaper (2024), Đi tìm 'tấm hộ chiếu' tiến sâu hơn vào thị trường Halal toàn cầu [Searching for the “passport” to engage deeper into global Halal market]. Available at:
https://baoquocte.vn/di-tim-tam-ho-chieu-tien-sau-hon-vao-thi-truong-halal-toan-cau-298818. html (accessed 19 February 2025)
VTV (2020), Tạo nền tảng để Việt Nam xây dựng một chiến lược về Halal. Available at: https://vtv.vn/kinh-te/tao-nen-tang-de-viet-nam-xay-dung-mot-chien-luoc-ve-halal-20201201 105321041.htm (accessed 29 March 2025)
World Bank (2002), Quyền được nói: Vai trò của Truyền thông đại chúng trong Phát triển kinh tế [The Right to Tell: The Role of Mass Media in Economic Development]. Available at: https://documents1.worldbank.org/curated/en/534631468314365954/pdf/250700VIETNAME 101OFFICIAL0USE0ONLY1.pdf (accessed 21 April 2025)