
Ảnh minh họa - TL
Thực trạng cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công ở Việt Nam
Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững là một chủ trương lớn, có ý nghĩa quan trọng: Được xây dựng và triển khai theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam “Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại ngân sách nhà nước và bảo đảm an toàn nợ công”(1). Tiếp theo đó, Bộ Chính trị lần đầu tiên ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 18-11-2016, “Về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững”.
Triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, Bộ Tài chính đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị quyết số 51/NQ-CP, ngày 19-6-2017, “Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 18-11-2016, của bộ chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững”, trình Quốc hội phê chuẩn các Nghị quyết số 25/2016/QH14, ngày 9-11-2016, “Về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020”; Nghị quyết số 23/2021/QH15, ngày 28-7-2021, “Về kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025” cụ thể hóa về mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, đề án, giải pháp chủ yếu, phân công tổ chức và triển khai thực hiện. Quá trình tổ chức thực hiện đã đạt được kết quả tích cực.
Về cơ cấu lại ngân sách nhà nước
Trong tiến trình phát triển, Đảng ta xác định, tài chính là huyết mạch của nền kinh tế, ngân sách nhà nước là một trong những công cụ chính sách quan trọng nhất của Nhà nước để thực hiện chức năng điều tiết, định hướng nền kinh tế. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm hiệu quả, toàn diện, công bằng, bền vững, động viên hợp lý nguồn lực. Hoàn thiện hệ thống chính sách thu gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng thúc đẩy tăng thu hợp lý kết hợp nuôi dưỡng nguồn thu, tăng tỷ trọng nguồn thu bền vững, đẩy mạnh chống thất thu, mở rộng cơ sở thu, phù hợp với thông lệ quốc tế. Từng bước cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên. Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 bình quân 3,7% GDP, phấn đấu giảm xuống dưới 3,7% GDP. Vay bù đắp bội chi chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, chỉ chi ngân sách nhà nước trong khả năng của nền kinh tế và chỉ vay trong khả năng trả nợ.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước có đổi mới: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế đã được ban hành, như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế. Đặc biệt, trong giai đoạn 2021 - 2023, hệ thống chính sách thuế đã được rà soát, hoàn thiện để kịp thời triển khai các giải pháp trong ngắn hạn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và thúc đẩy phục hồi kinh tế, xã hội trong bối cảnh ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và các vấn đề kinh tế, chính trị quốc tế. Đồng thời, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 508/QĐ-TTg, ngày 23-4-2022, “Về việc phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030”, trên cơ sở đó đã nghiên cứu, xây dựng để thực hiện mục tiêu lâu dài về hoàn thiện hệ thống chính sách thuế gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng ổn định, bền vững, bao quát toàn bộ nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là nguồn thu mới, bảo đảm tỷ trọng thu nội địa ở mức hợp lý như đã đề ra tại Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030. Công tác quản lý thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế, cơ quan thuế các cấp đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát chặt chẽ tình trạng chuyển giá, báo lỗ, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; tăng cường công tác quản lý rủi ro, quản lý hóa đơn, chứng từ, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và tuyên truyền pháp luật về thuế.
Kết quả đạt được trong giai đoạn qua: quy mô động viên vào ngân sách nhà nước trong các năm 2021, 2022 và 2023 lần lượt là 18,9% GDP, 19,1% GDP và 17,2% GDP(2). Cơ cấu thu ngân sách nhà nước ngày càng bền vững hơn. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu tăng dần, bình quân 3 năm (2021 - 2023) khoảng 82%, cao hơn mức bình quân 81,8% của cả giai đoạn 2016 - 2020. Thu ngân sách được cơ cấu lại theo đúng định hướng cải cách hệ thống thuế, là tăng dần tỷ trọng nguồn thu trong nước để bù đắp nguồn thu từ thuế xuất khẩu, nhập khẩu giảm do thực hiện cam kết quốc tế và nguồn thu từ dầu do sự biến động bất thường của giá dầu thế giới.
Cơ cấu chi ngân sách nhà nước có nhiều điểm tích cực: Các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước được quản lý chặt chẽ, ưu tiên chi đầu tư phát triển, tiết kiệm chi thường xuyên; bảo đảm kinh phí phòng, chống dịch, an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, nhiệm vụ chính trị quan trọng, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và kịp thời điều chỉnh tăng lương cơ sở năm 2023 cũng như bảo đảm nguồn cho cải cách tiền lương vào tháng 7-2024. Tổng thực hiện chi ngân sách nhà nước 3 năm giai đoạn 2021 - 2023 khoảng 5,9 triệu tỷ đồng, bằng 57% kế hoạch. Cơ cấu chi tiếp tục chuyển dịch tích cực, bình quân các năm từ 2021 - 2023, tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt khoảng 30%(3), chi thường xuyên ở mức 57% tổng chi ngân sách nhà nước.
Cân đối ngân sách nhà nước bền vững hơn: Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước bình quân từ 2021 - 2023 đạt khoảng 3,42 GDP, thấp hơn mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 bình quân 3,7% GDP. Vay bù đắp bội chi chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, chỉ chi ngân sách trong khả năng của nền kinh tế và chỉ vay trong khả năng trả nợ. Kiểm soát chặt chẽ nghĩa vụ nợ dự phòng, rà soát các khoản bảo lãnh mới, bảo đảm đúng quy định và hiệu quả.
Về quản lý nợ công
Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội đặt ra mục tiêu bảo đảm an toàn nợ công với chỉ tiêu trần nợ công không quá 60% GDP, ngưỡng cảnh báo 55%; trần nợ chính phủ không quá 50% GDP, ngưỡng cảnh báo 45%; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước không quá 25%. Triển khai các công cụ quản lý nợ công chủ động theo quy định phù hợp với yêu cầu thực tiễn, gắn với quản lý ngân sách nhà nước. Nâng cao hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính, ngân sách nhà nước, đặc biệt là nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, báo cáo, tăng cường hiệu quả công tác quản lý nợ công.
Thời gian qua, Bộ Tài chính đã tiếp tục tham mưu giúp Chính phủ thống nhất công tác quản lý nhà nước về nợ công, tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện, trình Quốc hội ban hành Luật Quản lý nợ công năm 2017 và cấp có thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành nhằm hoàn thiện một bước cơ bản khuôn khổ thể chế và chính sách quản lý nợ công, giúp thống nhất đầu mối quản lý nợ công, kiểm soát chặt chẽ việc huy động và sử dụng vốn vay của Chính phủ; bổ sung công cụ quản lý nợ chủ động thông qua các công cụ, như Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm, Chương trình quản lý nợ công 3 năm gối đầu, Kế hoạch vay, trả nợ công hằng năm. Đây là các công cụ hữu hiệu để kiểm soát các chỉ tiêu an toàn nợ công nhằm bảo đảm cơ cấu lại nợ Chính phủ theo hướng bền vững, giảm thiểu rủi ro về kỳ hạn, rủi ro thanh khoản, bảo đảm trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến cam kết của Chính phủ và hệ số tín nhiệm quốc gia. Tập trung kiểm soát chặt chẽ nợ công, cải thiện cơ cấu nợ góp phần củng cố bền vững tài khóa, nợ công.
Kết quả đến cuối năm 2023, các chỉ tiêu nợ bảo đảm trong giới hạn an toàn, góp phần bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Dư nợ công so với GDP có xu hướng giảm, từ mức gần sát trần cho phép năm 2016 (63,7%, tương đương với 50,9% GDP đánh giá lại(4)) xuống 42,7% năm 2021 và tiếp tục giảm xuống còn khoảng 37% năm 2023. Bên cạnh đó, nhờ các biện pháp kiểm soát chặt chẽ, tốc độ tăng dư nợ công và dư nợ công so với GDP hình thành nên xu hướng giảm. Tốc độ tăng dư nợ công bình quân hằng năm giảm từ mức 18,1% trong giai đoạn 2011 - 2015 (gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP) xuống 6,7% trong giai đoạn 2016 - 2020 và còn khoảng 2,2% trong giai đoạn 2021 - 2023. Cơ cấu dư nợ Chính phủ được cải thiện theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước, giảm tỷ trọng nợ nước ngoài. Tỷ trọng nợ trong nước so với tổng dư nợ Chính phủ tăng từ 60,1% năm 2016 lên 67,2% năm 2021 và khoảng 71,4% năm 2023, góp phần giảm rủi ro biến động tỷ giá.
Công tác huy động vốn chặt chẽ, hiệu quả sử dụng vốn vay được tăng cường: vay trong nước chủ yếu được huy động qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, tập trung vào các kỳ hạn dài, trên 5 năm, chủ yếu là kỳ hạn 10 năm và 15 năm trở lên. Kỳ hạn còn lại bình quân của danh mục trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2021 - 2023 đều trên 9 năm, góp phần giảm rủi ro đảo nợ cũng như áp lực huy động để trả nợ. Lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ được điều hành thận trọng, bảo đảm phối hợp hài hòa với điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất phát hành bình quân hằng năm giai đoạn 2021 - 2023 trong khoảng từ 2,3 - 3,21%/năm. Vốn nước ngoài chủ yếu từ nguồn vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vay ưu đãi từ nhà tài trợ, chiếm khoảng 10% tổng huy động vốn vay chính phủ. Khoản vay nước ngoài đang giải ngân chủ yếu vẫn là khoản vay ODA, vay ưu đãi của Chính phủ đã ký trước đây với kỳ hạn dài, lãi suất thấp, từ nhà tài trợ đa phương và song phương, như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, chính phủ Nhật Bản.
Quán triệt chủ trương tại Nghị quyết số 07-NQ/TW, của Bộ Chính trị, việc huy động và sử dụng vốn vay ODA và vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài chỉ dành cho chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên. Việc sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài tập trung cho các dự án công trình kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của Đại hội XII của Đảng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững, kết nối vùng có hiệu ứng lan tỏa, xử lý vấn đề môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế. Nhiều dự án trọng điểm quốc gia sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi cho các lĩnh vực, như đường cao tốc, cảng hàng không, cảng biển... góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Trách nhiệm sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi hiệu quả được gắn liền với trách nhiệm trả nợ, đặc biệt là đối với nợ chính quyền địa phương. Việc thanh toán trả nợ được thực hiện đầy đủ, đúng hạn, bảo đảm nghĩa vụ nợ đã cam kết của Chính phủ với nhà đầu tư, bên cho vay trong nước và nước ngoài, góp phần củng cố hồ sơ tín dụng và cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia. Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước hằng năm bảo đảm nằm trong giới hạn quy định (không quá 25%(5)), giảm từ 21,5% năm 2021 xuống khoảng 17,47 năm 2023.
Cùng với đó, đã tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, báo cáo. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, công khai thông tin về nợ công, bảo đảm chất lượng, thời hạn theo quy định, sử dụng đa dạng kênh thông tin, tăng cường tính minh bạch theo thông lệ quốc tế, giúp nhân dân, doanh nghiệp, cơ quan hoạch định chính sách, tổ chức quốc tế, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận thông tin cũng như chủ động trong đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Thành công trong ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố bền vững ngân sách nhà nước và an toàn nợ công đã được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm ghi nhận tích cực tại các báo cáo về Việt Nam. Hệ số tín nhiệm và triển vọng xếp hạng của Việt Nam có nhiều cải thiện qua các năm. Đến nay, xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam chỉ còn cách định mức đầu tư 1 bậc đối với tổ chức S&P và Fitch, 2 bậc đối với tổ chức Moody’s, tiến gần đến mục tiêu tới năm 2030 đạt định mức đầu tư. Đánh giá tích cực của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế giúp giảm chi phí vay của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và các thành phần kinh tế huy động vốn trên thị trường trong nước và quốc tế.
Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công trong thời gian tới
Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công là nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô, kết hợp hài hòa giữa giải quyết vấn đề quan trọng, cấp bách với các vấn đề cơ bản, dài hạn, hiệu quả, toàn diện, công bằng, tăng cường hiệu lực, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Việc thực hiện cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc duy trì tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp.
Tuy nhiên, trong triển khai vẫn còn khó khăn, thách thức, tập trung chủ yếu như việc hoàn thiện thể chế còn chậm, trong thực hiện đặt ra yêu cầu rà soát quy định để thực hiện tốt nhiệm vụ công tác quản lý tài chính, ngân sách và nợ công: quy mô động viên vào ngân sách nhà nước so với GDP có xu hướng giảm, dự báo các năm còn lại của giai đoạn phụ thuộc vào việc xử lý khó khăn, thách thức nội tại của nền kinh tế, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước bình quân khả năng không đạt kế hoạch (từ 85 - 86%), thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở mức thấp. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước tiếp tục gặp thách thức, áp lực tăng chi lớn. Kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách tăng cường, nhưng chưa nghiêm, công tác tự kiểm tra chưa được phát huy mạnh mẽ.
Nguyên nhân của hạn chế nêu trên do bối cảnh kinh tế, chính trị thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức phát sinh; thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp; tình hình kinh tế - xã hội trong nước khó khăn. Cơ cấu lại nền kinh tế cần thời gian, hệ thống pháp luật còn một số điểm bất cập, chưa phù hợp. Năng lực phân tích, dự báo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn luôn biến động. Vai trò người đứng đầu ở một số nơi chưa được thể hiện rõ và phát huy đầy đủ. Vì vậy, để chủ trương cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công, bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững đạt kết quả, bảo đảm tính bền vững cần tiếp tục thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục quán triệt chủ trương, giải pháp: cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Chuẩn bị tiến hành tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 18-11-2016, của Bộ Chính trị; rà soát, đánh giá việc thực hiện các kế hoạch kinh tế - xã hội, tài chính quốc gia, vay trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 và đồng thời triển khai nghiên cứu, xây dựng các kế hoạch này cho giai đoạn 2026 - 2030.
Hai là, tổng kết, đánh giá, sửa đổi, bổ sung đối với các luật liên quan đến đầu tư công, ngân sách nhà nước, quản lý nợ công, điều ước quốc tế… để từng bước hài hòa hóa, vừa bảo đảm sự phù hợp với cam kết quốc tế, quy định của nhà tài trợ, vừa phù hợp điều kiện của Việt Nam. Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bao quát toàn bộ nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế; bảo đảm tỷ trọng thu nội địa, tỷ trọng giữa thuế gián thu và thuế trực thu ở mức hợp lý, khai thác tốt thuế, phí và lệ phí thu từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường; hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội trong pháp luật về thuế và chính sách miễn, giảm, bảo đảm tính trung lập của thuế, hướng tới một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, bảo đảm huy động hợp lý nguồn lực cho ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy cạnh tranh, điều tiết thu nhập hợp lý, phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế.
Ba là, điều hành chính sách tài khóa có trọng tâm, trọng điểm, phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn về thể chế, chính sách, tạo điều kiện tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế, xã hội. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và tính chủ động của ngân sách địa phương. Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, bảo đảm nguồn lực cho quốc phòng, an ninh, chính sách an sinh xã hội, thực hiện cải cách chính sách tiền lương, hệ thống bảo hiểm xã hội theo chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước; ưu tiên phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông… Điều hành chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, hiệu quả, đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công. Rà soát lại hệ thống quy định về tỷ lệ chi ngân sách nhà nước đối với một số lĩnh vực, như khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo và dạy nghề, bảo vệ môi trường... phù hợp với thực tiễn quản lý, yêu cầu phát triển của đất nước.
Bốn là, đẩy mạnh việc cơ cấu lại, nâng cao chất lượng quản trị và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế; thực hiện có kết quả việc thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối và thoái vốn đã đầu tư vào hoạt động ngoài ngành, nghề kinh doanh chính.
Năm là, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước, nợ công, tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Đẩy mạnh việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu; khen thưởng, động viên kịp thời đi đôi với xử lý nghiêm hành vi vi phạm. Tiếp tục đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin.
Sáu là, phát triển thị trường tài chính, thị trường vốn trong nước, đa dạng hóa kỳ hạn phát hành, bao gồm cả kỳ hạn dưới 5 năm, bảo đảm kỳ hạn phát hành bình quân trong phạm vi Quốc hội cho phép, đồng thời đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư, góp phần hình thành đường cong lãi suất chuẩn với đầy đủ kỳ hạn tham chiếu cho các công cụ nợ cũng như các thành phần kinh tế khác.
Bảy là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nợ công, đổi mới phương thức quản lý nợ công trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số, tiệm cận mô hình quản lý nợ tiên tiến của quốc tế. Nghiên cứu hình thành cơ quan quản lý nợ công chuyên nghiệp, hiện đại theo thông lệ quốc tế theo đúng định hướng tại Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 18-11-2016, của Bộ Chính trị./...
Nguyễn Đức Chi
Thứ trưởng Bộ Tài chính
-------------------
(1) Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ngày 28-1-2016
(2) Cao hơn mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 23/2021/QH15 là không thấp hơn 16% GDP
(3) Cao hơn so với mục tiêu tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội là 28%
(4) GDP đánh giá lại để đúng bức tranh, năng lực của nền kinh tế|
(5) Theo Nghị quyết số 23/2021/QH15 về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025