Tóm tắt: Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, công nghệ cao và công nghệ số đã trở thành những yếu tố then chốt, định hình sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Điều đó không chỉ giúp thay đổi phương thức sản xuất, quản trị và tiêu dùng, mà còn mở ra những cơ hội to lớn cho sự phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Bài viết nhằm khẳng định vai trò quan trọng không thể thay thế và đề xuất những giải pháp thúc đẩy phát triển công nghệ cao trong giai đoạn hiện nay.
Từ khoá: Công nghệ cao, công nghệ số, vai trò không thể thiếu, mô hình tăng trưởng…

Phát triển công nghiệp bán dẫn: Cách tiếp cận độc đáo của Việt Nam.
Ảnh minh họa - TL
Công nghệ cao (CNC) là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Phát triển công nghệ cao, vì thế đang trở thành hướng đi chiến lược ở Việt Nam.
Về chủ trương, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, là quốc sách hàng đầu. Chủ trương nhất quán đó được thể hiện trên nhiều phương diện: Nghị quyết số 52-NQ/TW năm 2019 của Bộ Chính trị về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đề ra mục tiêu: Việt Nam chủ động tiếp cận và tận dụng có hiệu quả cơ hội từ cuộc cách mạng 4.0, trong đó phát triển công nghệ cao là một nhiệm vụ trọng tâm. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đó là động lực chính của tăng trưởng kinh tế”. Trong khi đó, Luật Công nghệ cao năm 2008 quy định rõ: Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ cao.
Vai trò quan trọng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), CNC trở thành yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia, chất lượng tăng trưởng và tính bền vững của nền kinh tế. Đối với Việt Nam, phát triển công nghệ cao có vai trò đặc biệt quan trọng; cụ thể: (1) CNC góp phần nâng cao năng suất lao động, giá trị gia tăng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, giúp Việt Nam chuyển dịch từ nền kinh tế gia công sang nền kinh tế tri thức; từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. (2) Thông qua việc ứng dụng CNC trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục, nông nghiệp, giao thông... sẽ giúp nâng cao chất lượng dịch vụ, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, an sinh xã hội. (3) Phát triển CNC sẽ góp phần hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực phòng thủ và an ninh mạng. (4) Việc làm chủ CNC đồng thời sẽ giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hợp tác hiệu quả với các quốc gia phát triển.
Trong khi Công nghệ cao được xem là cốt lõi của mô hình tăng trưởng mới, giúp tự động hóa quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí và thời gian sản xuất; thì công nghệ số (CNS) như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, blockchain... lại giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động, tăng hiệu quả quản lý và khai thác triệt để nguồn lực. Nhờ đó, năng suất lao động được cải thiện rõ rệt, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Cùng với đó, Chuyển đổi số (CĐS) được xem là chìa khóa của đổi mới sáng tạo và quản trị hiện đại trong tất cả các lĩnh vực như giáo dục, y tế, nông nghiệp, giao thông, hành chính công... Thực hiện CĐS sẽ giúp bộ máy quản lý ngày càng minh bạch, hiệu quả, người dân và doanh nghiệp được phục vụ nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Việt Nam là quốc gia có điều kiện để phát triển CNC phục vụ sự phát triển bền vững và hiệu quả. Theo kế hoạch đã được hoạch định, từ năm 2025 Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình để chuyển mạnh sang giai đoạn trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước công nghiệp có thu nhập cao vào năm 2045. Tốc độ tăng trưởng bình quân có thể đạt 2 con số từ năm 2026. Để đạt được mục tiêu đó, không thể không thực hiện quá trình chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế từ mô hình dựa vào nguồn lực hay hiệu quả sang mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo. Theo đó, cần đổi mới thực chất mô hình tăng trưởng, trong đó phải lấy CNC làm nòng cốt và là yếu tố cốt lõi. Các loại công nghệ được ưu tiên bao gồm công nghệ vật liệu bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, tự động hóa, dữ liệu, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ…
Trong hành trình đó, đổi mới sáng tạo là phương tiện quan trọng và hiệu quả nhất để cải thiện vị thế quốc gia. Một trong những điều kiện đặc biệt quan trọng để thúc đẩy đổi mới sáng tạo nhằm tạo chỗ dựa cho việc đổi mới vững chắc mô hình tăng trưởng, giải phóng tiềm năng phát triển, phát huy cao nhất yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu, là cần tăng chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngày nay, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ lớn mạnh là tạo nền tảng để ngành công nghiệp của một quốc gia phát triển vững chắc. Theo đó, đóng góp vào hàm lượng CNC trong từng sản phẩm mới là giải pháp trọng tâm mà công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cần hướng tới. Nói cách khác, CNC trở thành mục tiêu cần được làm chủ và đây cũng là dấu hiệu cho thấy sứ mệnh đặc biệt quan trọng của CNC trong việc quyết định vị thế chiến lược của quốc gia.
Phát triển CNC gắn liền với phát triển CNS mới phát huy được hiệu quả chung. Ngày nay, CNS đã và đang khẳng định vai trò động lực chủ chốt, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Trong đó, CĐS không chỉ là một xu hướng tất yếu, mà còn là yêu cầu cấp thiết để Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới. Qua đó, mở ra cơ hội cải thiện năng suất lao động, tạo điều kiện để đổi mới sáng tạo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi tầng lớp nhân dân.
Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam hướng đến một mô hình phát triển bền vững, lấy khoa học công nghệ làm trọng tâm, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá. Mặt khác, từ việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến, chúng ta có thể phát triển CNC, các ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, bền vững, xã hội số toàn diện, tiên tiến, bản sắc. Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn tạo ra nền tảng vững chắc để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng là thời kỳ quan trọng cho sự chuyển đổi hướng tới một nền kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và ưu tiên phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển công nghệ cao – Thực trạng và giải pháp
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), CNC đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và đảm bảo an ninh quốc gia. Giờ đây, việc phát triển CNC không chỉ là một xu thế tất yếu mà còn là đòi hỏi cấp thiết nhằm đưa đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, tiến tới trở thành nước công nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng trong phát triển CNC trên nhiều lĩnh vực. Một số điểm nổi bật là:
Phát triển mạnh mẽ ngành công nghệ thông tin và viễn thông: Xuất khẩu phần mềm tăng trưởng đều đặn, với các công ty lớn như FPT, VNPT, Viettel, VNG… mở rộng ra thị trường quốc tế. Gia công phần mềm và dịch vụ CNTT đạt doanh thu hàng tỷ USD mỗi năm, góp phần đưa Việt Nam vào top các quốc gia hấp dẫn nhất về gia công phần mềm (theo Gartner, Tholons…). Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia trên thế giới phát triển và thử nghiệm thành công thiết bị 5G “Make in Vietnam” do Viettel nghiên cứu và sản xuất.
Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ: Số lượng startup công nghệ tăng mạnh, nhiều startup gọi vốn thành công ở mức hàng triệu USD (ví dụ: Sky Mavis, Lozi, MoMo...). Chính phủ đã thúc đẩy chương trình “Quốc gia khởi nghiệp”, xây dựng nhiều trung tâm đổi mới sáng tạo (NIC, Saigon Innovation Hub…). Việt Nam nằm trong top 3 hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo hàng đầu Đông Nam Á (theo báo cáo của StartupBlink, 2024).
Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, y tế, công nghiệp: Nông nghiệp công nghệ cao được triển khai ở nhiều tỉnh như Lâm Đồng, Hà Nam, TP.HCM… với mô hình nhà kính, nhà màng, hệ thống tưới thông minh, robot thu hoạch. Trong lĩnh vực Y tế, đã ứng dụng AI trong chẩn đoán hình ảnh, hỗ trợ điều trị; triển khai bệnh án điện tử và khám chữa bệnh từ xa. Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp áp dụng công nghệ IoT, tự động hóa, robot hóa trong sản xuất (như VinFast, Thaco, Samsung Việt Nam…).
Thành tựu trong nghiên cứu và sản xuất thiết bị công nghệ: Việt Nam đã tự sản xuất được thiết bị điện tử viễn thông, linh kiện, thiết bị đầu cuối như smartphone (Vsmart), tivi, chip IoT, thiết bị mạng. Trong đó, VinGroup và Viettel đầu tư mạnh vào R&D, thành lập các trung tâm nghiên cứu công nghệ cao…
Chuyển đổi số quốc gia và chính phủ điện tử: Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về CĐS đến 2025, định hướng đến 2030, tập trung vào 3 trụ cột: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Nhiều dịch vụ công được số hóa qua Cổng dịch vụ công quốc gia, giúp giảm thời gian, chi phí cho người dân và doanh nghiệp.
Thành tích quốc tế và chỉ số công nghệ: Theo Báo cáo đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII 2023), Việt Nam nằm trong top 50 quốc gia đổi mới sáng tạo, đặc biệt được đánh giá cao về hiệu quả đổi mới so với thu nhập. Việt Nam cũng là quốc gia có tốc độ phát triển CNS nhanh nhất trong khu vực ASEAN.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cản trở sự phát triển mạnh mẽ và bền vững. Cụ thể là: (1) Nguồn nhân lực CNC còn thiếu và yếu về cả số lượng lẫn chất lượng. Thiếu kỹ sư, nhà khoa học có trình độ chuyên sâu, đặc biệt trong các lĩnh vực như AI, chip bán dẫn, tự động hóa, công nghệ sinh học... Quá trình đào tạo chưa gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thị trường và doanh nghiệp. (2) Tỷ lệ chi cho R&D/GDP thấp (dưới mức trung bình thế giới), phần lớn đến từ ngân sách nhà nước, còn doanh nghiệp tư nhân chưa đầu tư nhiều. Hệ thống phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu chưa đồng bộ, còn thiếu các viện nghiên cứu tầm cỡ. (3) Thiếu hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh: Các startup CNC còn ít, phần lớn thiếu vốn, thiếu hỗ trợ kỹ thuật. Thiếu sự kết nối hiệu quả giữa trường đại học – viện nghiên cứu – doanh nghiệp. Hệ sinh thái đầu tư mạo hiểm còn yếu, ít quỹ hỗ trợ cho các dự án công nghệ cao. (4) Còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ nước ngoài, chủ yếu nhập khẩu công nghệ thay vì tự làm chủ. Công nghiệp phụ trợ yếu, chưa sản xuất được linh kiện cốt lõi cho các ngành công nghệ cao như vi mạch, thiết bị y tế, tự động hóa…(5) Còn thiếu các cơ chế đặc thù để khuyến khích phát triển CNC. Chính sách thuế, hỗ trợ doanh nghiệp CNC chưa rõ ràng, còn thủ tục hành chính rườm rà. Bảo vệ sở hữu trí tuệ còn yếu, khiến các nhà đầu tư chưa yên tâm. (6) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ: Mạng lưới hạ tầng phục vụ nghiên cứu, sản xuất công nghệ cao (khu CNC, logistics, điện, nước…) còn thiếu hoặc chưa đạt chuẩn. Một số khu công nghệ cao lớn như TP.HCM, Hòa Lạc… phát triển chậm so với kỳ vọng. (7) Chưa tận dụng hiệu quả cơ hội từ CĐS và CMCN 4.0: Vẫn còn nhiều ngành, lĩnh vực chưa sẵn sàng về chuyển đổi số. Thiếu lộ trình rõ ràng, thiếu nhân lực thực thi, và còn tâm lý e dè trong ứng dụng công nghệ mới.
Vậy đâu giải pháp giúp thúc đẩy phát triển công nghệ cao hiện nay? Cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
1- Trước hết, cần nhận thức đầy đủ hơn vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng và thậm chí quyết định của công nghệ cao trong việc cải thiện vị thế quốc gia trong dài hạn và bối cảnh phát triển mới. Cần đẩy mạnh công tác truyền thông hiệu quả về công nghệ cao để huy động lớn nhất mối quan tâm và nỗ lực liên tục phát triển tất cả các hướng công nghệ cao.
2- Hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật: Ban hành các chính sách ưu đãi mạnh mẽ về thuế, đất đai, vốn… để thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao; Xây dựng khung pháp lý rõ ràng, ổn định và đồng bộ để tạo môi trường thuận lợi cho nghiên cứu, chuyển giao và thương mại hóa công nghệ; Tăng cường quản lý nhà nước theo hướng kiến tạo, hỗ trợ thay vì can thiệp hành chính. Cần có hệ sinh thái phát triển công nghệ cao trên cơ sở Đề án và Luật Công nghệ cao cũng như các quy định khác có liên quan. Đầu tư nhiều hơn và công nghệ cao và có cơ chế ưu đãi, khuyến khích hiệu quả công nghệ cao. Phát triển thị trường công nghệ cao gắn với mô hình hợp tác đầu tư phát triển công nghệ cao hoặc liên doanh quốc tế phù hợp.
3- Tăng cường đầu tư cho R&D và đổi mới sáng tạo: Nâng tỷ lệ chi ngân sách cho hoạt động R&D lên mức tối thiểu 1-2% GDP; Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ; Tăng cường kết nối giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp để thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
4- Phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao: Đổi mới giáo dục đại học và dạy nghề theo hướng gắn lý thuyết với thực hành, sát với nhu cầu doanh nghiệp; Có chính sách thu hút và giữ chân nhân tài trong và ngoài nước; Mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo và chuyển giao tri thức.
5- Xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ: Tăng cường đầu tư phát triển các khu công nghệ cao đồng bộ, hiện đại; Phát triển hạ tầng số, đặc biệt là mạng 5G, điện toán đám mây, dữ liệu lớn; Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, bao gồm vườn ươm, quỹ đầu tư mạo hiểm, trung tâm nghiên cứu – phát triển…6
6- Khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển công nghệ cao: Coi trọng việc ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đặc biệt trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, công nghệ môi trường…; Tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ từ các nước tiên tiến thông qua hợp tác, chuyển giao; Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao năng lực quản trị và cạnh tranh toàn cầu.
7- Phát triển doanh nghiệp công nghệ cao nội địa: Ưu tiên hỗ trợ các startup, doanh nghiệp công nghệ nội địa phát triển sản phẩm “Make in Vietnam”. Khuyến khích các tập đoàn lớn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ lõi như AI, bán dẫn, công nghệ sinh học, vật liệu mới...
Có thể nói, phát triển CNC là chìa khóa để Việt Nam nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng tăng trưởng và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế tri thức toàn cầu. Song, để làm được điều đó, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, trường đại học và toàn xã hội. Chỉ khi đầu tư đúng mức và đúng hướng, Việt Nam mới có thể tận dụng được cơ hội và bứt phá trong thời đại công nghệ số./.
TS Lê Minh Hoàn




