
GS.TS Đỗ Năng Vịnh – nguyên Phó Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam
GS.TS Đỗ Năng Vịnh sinh năm 1951 ở quê hương Phú Thọ, tốt nghiệp ngành Di truyền học tại Liên Xô năm 1975, ông trở thành nghiên cứu viên của Viện Sinh học, Viện khoa học Việt Nam (nay thuộc Viện Hàn lâm KH-CN Việt Nam). Từ năm 1984 - 2000, ông là Trưởng bộ môn nuôi cấy mô và tế bào thực vật, giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ tế bào thực vật (2000 -2011); Phó viện trưởng viện Di truyền nông nghiệp (1993-2011); Đại diện nước ta tại Trung tâm Kỹ thuật gen và CNSH quốc tế ( từ 1994 - nay); Đồng Giám đốc Phòng thí nghiệm liên kết Việt-Pháp (từ 2011- 2019); Ông cũng từng là Chủ tịch Hội đồng khoa học của viện và rất nhiều các hội động khoa học khác có liên quan. Có thể nói, mọi hoạt động sống của ông trong suốt 50 năm qua trong lĩnh vực khoa học sinh nông đều xuất phát từ tình yêu thiên nhiên và con người; từ những triết lý vững chắc về KHCN và những vấn đề thực tiễn quốc gia. Ông đã từng viết:
Sự sống trên trái đất thực là đa dạng và tuyệt đẹp. Mọi vẻ đẹp và những giá trị thẩm mỹ mà chúng ta cảm nhận được trên trái đất đều phụ thuộc vào sự đa dạng ấy. Đa dạng sinh học chính là nền tảng của sinh tồn và đấu tranh sinh tồn; nền tảng của đào thải và tiến hóa; nguyên nhân của mọi bi kịch và mọi niềm vui, nỗi buồn trên trái đất. “Mọi sự kỳ diệu ra đời đều phải cần đến thời gian, hay thời gian luôn cần để thai nghén các sự cố vĩ đại. Chỉ có sự vô tận của thời gian, của sự tiến hoá mới giải thích được sự tuyệt mỹ, hài hoà của thế giới hôm nay”.
“Mọi sự đa dạng đều xuất phát từ những tổ hợp vô cùng vô tận của mã di truyền và các tổ hợp gen. Thiên nhiên vận động đến một thế giới sống đa dạng, hài hoà, hoàn thiện và hoàn mỹ bằng vô tận các thử nghiệm tái tổ hợp mã di truyền và đào thải đầy bi kịch như Darwin đã phát hiện: di truyền, biến dị và chọn lọc tự nhiên, trong đó đấu tranh sinh tồn là quy luật của tiến hoá và tiến bộ. Trong đó, con người là một bộ phận của thiên nhiên và là thành tựu sáng tạo vĩ đại nhất trong vũ trụ mà trí thuệ của chúng ta đang nhận biết. Do vậy, thiên nhiên và con người là đối tượng để khoa học tôn thờ, yêu quý, nâng niu và bảo vệ khỏi mọi thứ độc hại và chiến tranh tàn phá.”
Ông nói, nhờ có khoa học và nghiên cứu lịch sử tiến hóa mà các nhà khoa học đã học được cách ứng sử với thiên nhiên và biết tôn vinh những giá trị của tri thức.
Cách đây hơn 250 năm, Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ,George Washington (1732 - 1799), trong Thông điệp liên bang đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, ngày 8 tháng 1 năm 1770, đã nói: “ Tri thức của mỗi quốc gia là nền tảng chắc chắn nhất bảo đảm cho hạnh phúc chung”.
Ông viết:
Mỗi tri thức là một tia chớp lửa
Xé tạc mây đen làm sáng rỡ mặt trời
Mỗi trí nhân là một trang quân tử
Một tiếng sấm rền vang lay động đất trời.
Trong lịch sử phát triển của sự sống chỉ có thời gian mới có thể cho phép thiên nhiên thiết kế, thử nghiệm, loại trừ, chọn lọc, để cuối cùng đạt đến các cơ thể sống hoàn thiện mà hôm nay chúng ta có được hạnh phúc nghiên cứu, hạnh phúc yêu, hạnh phúc chiêm ngưỡng với những cảm hứng vô tận. Do vậy, Con người trí tuệ phải nhận thức rõ được những nguy cơ để vượt lên những ham muốn làm giàu nhanh chóng, bảo tồn cho được thế giới tuyệt mỹ mà thiên nhiên đã dâng tặng cho loài người. Trong hoàn cảnh đó, các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo có thể và phải trở thành vũ khí để bảo tồn và phát triển hệ sinh thái đa dạng sinh học, khôi phục màu xanh, kiến tạo thiên nhiên và các nguồn năng lượng sống của Trái đất. Do vậy, CNSH, "Công nghệ xanh", "Công nghệ sạch" phải tạo ra nguồn năng lượng và vật liệu tái sinh, tạo ra thức ăn, sức khỏe, sự dẻo dai, trí tuệ minh mẫn, vẻ đẹp, hấp thụ thán khí và tạo thêm dưỡng khí cho nhịp thở của nhân loại. Đạo lý sống và hành động của chúng ta phải là:
- Trồng một cây xanh là làm một điều thiện.
- Việt Nam xanh, Việt Nam nước sạch và Không khí trong lành (Vietnam Green, Water Clean and Fresh Air). Mãi mãi vun trồng màu xanh của trái đất.
GS. Vịnh cũng viết để ca ngợi con người sáng tạo và giới khoa học:
“Con Thiêu Thân tìm đến ánh sáng của kẻ khác để tự thiêu.
Con người tự thiêu bằng ánh sáng của chính mình.
Con người đam mê, bùng cháy, tự thiêu đốt trong ngọn lửa quay cuồng của sự tự thân sáng tạo.
Hoạt động khoa học, cũng như bất kỳ hoạt động sáng tạo nào khác, đều là một cách dấn thân tự nguyện để tìm kiếm và phát hiện, sáng tạo những gì chưa từng có hoặc chưa từng biết”.
Ông chia sẻ: Sáng tạo, đó là cuộc tìm kiếm những lạc thú tinh thần nội tâm.
“Bên cạnh một vì sao sáng là không gian sâu thẳm đen ngòm.
Bên cạnh một ngọn đèn lấp lánh là đêm tối mênh mông.
Bên cạnh một điều đã biết là vô vàn những điều chưa biết tới.
Bên cạnh một người giàu có còn hàng ngàn người nghèo khó.
Những điều chưa biết, những việc chưa làm còn nhiều vô kể.
Chọn việc gì để làm ? Vì ai mà phục vụ ?
Đó là những điều trăn trở trăm năm của kẻ trí nhân.
*
Chọn KHCN để đầu tư là khát vọng vươn lên của dân tộc.
Những việc KHCN phải làm là không thể coi thường.
Đó không phải là thứ mà những kẻ ăn sổi ở thì có thể gánh vác.
Đó không phải là mì ăn liền mà phải là một chiến lược quốc gia.
Đó là gánh nặng dân tộc đặt trên vai của nhiều thế hệ kẻ sỹ.
Khi trí ta đã quyết, lòng ta đã đồng thì phải đi đến tận đích.
Đích đó chính là khát vọng của dân tộc không chịu thấp hèn.
Khát vọng đó phải thể hiện bằng chiến lược đầu tư phát triển.
Đã có chiến lược chưa đủ, phải có quyết tâm chiến lược quốc gia.
Thực hiện chiến lược đó phải là kẻ trí nhân.
*
Để nước nhà phát triển hùng cường,
Nhà nước phải lấy khoa học công nghệ làm trọng.
KHCN phải lấy con người trí nhân làm trọng.
Người trí nhân phải lấy quốc gia dân tộc làm trọng”.
Giá trị nhân bản cao quý nhất ở nhà khoa học là tình yêu con người, là tình nhân ái, là niềm kiêu hãnh làm người và thái độ tôn quý đồng loại.
Đối với GS. Vịnh, khoa học là mặt trời sáng tạo, cháy không ngừng trong hệ mặt trời của chúng ta. Thiếu nó trái đất sẽ vô cùng tăm tối và chúng ta sẽ rơi vào địa ngục của sự ngu dốt và man rợ. Ông nói, bài học lớn nhất của triết học duy vật biện chứng là: « Thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng » và « Lý luận không có thực tiễn là lý luận suông ».
Xuất phát từ những triết lý trên đây, GS. Vịnh đã dành rất nhiều thời gian cho học, đọc, đi, lặn lội trong thực tiễn, tìm hiểu và phân tích các xu hướng của thời đại và những thành tựu mũi nhọn của KH-CN trên thế giới để xây dựng các định hướng nghiên cứu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đáp ứng tốt nhất cho các nhu cầu thực tiễn của đất nước. Ngay từ ngày mới ra trường ông đã viết trong nhật ký: Chiến lược phát triển quốc gia, nói chung, và chiến lược KH-CN, nói riêng, rất cần đến tầm nhìn. « Tầm nhìn trong thời đại ngày nay phải là tầm nhìn từ vệ tinh ; tầm nhìn bao quát trái đất; tầm nhìn từ xa lộ thông tin; từ đó, dẫn dắt việc nghiên cứu với niềm tin và quyết tâm bền vững, vượt qua mọi trở ngại ».
GS. TS. Đỗ Năng Vịnh đã bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu khoa học ngay từ khi rời ghế nhà trường năm 1975, ngay sau ngày hòa bình, thống nhất đất nước. Từ đó đến nay GS luôn là người mở đường cho nhiều định hướng nghiên cứu - phát triển khoa học và ứng dụng thực tiễn. Điểm qua từng bước đi và các đóng góp của GS Vịnh như sau: Từ năm 1984, trưởng Bộ môn Nuôi cấy mô và công nghệ tế bào thực vật đầu tiên của Viện Di truyền Nông nghiệp (VDTNN), tiền thân của Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Tế bào Thực vật hiện nay. Đến năm 1993 được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng VDTNN, phụ trách khoa học. Năm 1994, GS Vịnh cùng với các lãnh đạo Viện và các đồng nghiệp khác thành lập Trung tâm Công nghệ sinh học Thực vật và là Giám đốc đầu tiên của Trung tâm này. Đây là một trong các doanh nghiệp khoa học công nghệ đầu tiên trong nước thuộc lĩnh vực công nghệ sinh học. Ông nói: “ Trên con thuyền lớn, tiến ra biển lớn của nền kinh tế quốc gia; doanh nghiệp phải là người cầm cờ, đứng mũi chịu sào, đương đầu với sóng gió để cạnh tranh phát triển. Trên con tàu đó, nhà khoa học phải chịu trách nhiệm là người tư vấn tin cậy của doanh nghiệp và lập nghiệp”. Năm 1995, GS cũng sáng lập và là Giám đốc kiêm nhiệm của Trung tâm cây ăn quả đoàn Thanh niên thuộc Trung ương Đoàn. Ông cho rằng rau hoa quả là thế mạnh của nông nghiệp nước ta và là tương lai của thực phẩm dinh dưỡng, thực phẩm chức năng và sức khỏe. Từ năm 2000, Bộ môn Nuôi cấy mô và công nghệ tế bào, Viện Di truyền Nông nghiệp đã được chọn vào danh sách được ưu tiên số một trong năm dự án đầu tư xây dựng Phòng Thí nghiệm Trọng điểm (PTNTĐ) thuộc lĩnh vực Công nghệ sinh học. GS Vịnh là người xây dựng chiến lược và các dự án, đề tài nghiên cứu mang tính chiến lược cho PTNTĐ và Viện DTNN. Ông là Giám đốc của phòng TNTĐ đến năm 2011. GS Vịnh và tập thể các cán bộ phòng TNTĐ Công nghệ tế bào đã có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng, nghiên cứu khoa học của Viện và ứng dụng các thành tựu khoa học vào thực tiễn sản xuất.Ông đã đề xuất và nghiên cứu các vấn đề khoa học mũi nhọn: Công nghệ RNAi gây bất hoạt gen để kiểm soát bệnh virus. Nghiên cứu công nghệ phôi vô tính, hạt nhân tạo và bioreactors trong nhân giống và chọn tạo giống cây trồng. Xác định các gen quan trọng quy định cấu trúc bộ rễ, cấu trúc bông và năng suất của cây lúa. Áp dụng cứu phôi, đột biến và đa bội thể thực nghiệm cho chọn tạo giống cây ăn quả có múi không hạt. Giải trình tự hệ thống gen, dữ liệu lớn về tài nguyên di truyền và công nghệ chỉnh sửa gen.
Ngay từ khi triển khai PTNTD, ông đã viết “ Con người là chủ thể của mọi hoạt động KHCN. Phòng thí nghiệm trọng điểm phải lấy con người khoa học, nhân tài làm trọng. Không có nhân tài sáng tạo, không thể có KHCN”.Điều làm ông trăn trở nhất là định hướng, chính sách, cơ chế quản lý, điều hành, đặc biệt là chính sách đối với nhân tài đã và đang rất nhiều bất cập. Ông coi việc thu hút, trọng dụng nhân tài là “ Vấn đề cốt tử đối với KHCN”.

GS. Vịnh giới thiệu với các chuyên gia nước ngoài về Phòng thí nghiệm trọng điểm và Phòng thí nghiệm liên kết quốc tế (Việt - Pháp) về Hệ thống gen cây lúa và CNSH cây trồng (LMI Rice)
Giáo sư Vịnh đặc biệt quan tâm phát triển hợp tác quốc tế (HTQT). Ông coi HTQT là một trọng tâm cốt lõi của sách lược phát triển nhanh. Đó là “Sách lược đứng trên vai những người khổng lồ” trong lĩnh vực KH-CN. Ông đã được GS. Viện sỹ Nguyễn Văn Hiệu, Chủ tịch Viện hàn lâm KH-CN Việt Nam và Đại sứ Pháp mời tham gia tư vấn thành lập Trường đại học Việt Pháp – Trường Đại học KH và CN Hà Nội (USTH). Ông và GS.TS Pascal Gantet là đồng giám đốc của Phòng thí nghiệm liên kết quốc tế “ Chức năng hệ thống gen cây lúa và CNSH cây trồng” (LMI-Rice). Đây là phòng thí nghiệm liên kết giữa Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam, Viện KH Nông nghiệp Việt Nam, Viện DTNT và Viện Nghiên cứu phát triển (IRD), Đại học Montpellier và Đại học USTH. Sau 8 năm hoạt động, Phòng thí nghiệm LMI-Rice đã công bố 40 bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín về di truyền cây lúa liên quan đến các tính trạng năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu stress. Đồng thời phối hợp với các nhà khoa học hàng đầu của Pháp về di truyền và CNSH,Viện Nông Lâm Nghiệp Miền núi Phía Bắc nhân giống in vitro và khảo nghiệm các giống cà phê chè ưu thế lai F1. Kết quả đã xác định được 4 giống cà phê mới có năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu bệnh rỉ sắt vượt trội so với giống Catimor đang được trồng phổ biến ở nước ta.Ông nói: Các giống cà phê ưu thế lai F1 sẽ mở ra cuộc cách mạng mới trong ngành cà phê ở nước ta và trên thế giới.
Gần đây, Giáo sư đã xây dựng và thực hiện thành công đề tài HTQT với các nhà khoa học CHLB Đức về chuyển đổi sinh khối cây lúa và cây mía thành các sản phẩm có giá trị gia tăng như hạt hữu cơ phân bón vi sinh, hạt hấp phụ, than hoạt tính và vải địa kỹ thuật bảo về đất chống sói mòn, sụt lở đất. Các quy trình công nghệ tạo ra có triển vọng ứng dụng vào phát triển công nghiệp sinh khối và nông nghiệp tuần hoàn ở nước ta. Hiện nay dù đã nghỉ hưu nhưng ông vẫn rất nhiệt huyết trong công tác tư vấn cho các doanh nghiệp, địa phương về phát triển nông nghiệp, sinh thái bền vững và giảng dạy tại các trường Đại học. Là Đại diện nước ta tại Trung tâm Kỹ thuật gen và CNSH quốc tế, đồng thời có quan hệ quốc tế rộng rãi, GS Vịnh tham gia đào tạo và hỗ trợ đào tạo hàng chục tiến sỹ, thạc sỹ ở nước ngoài; kết nối kinh doanh và chuyển giao nhiều tiến bộ KH-CN về nước, thực hiện “Sách lược đứng trên vai những người khổng lồ” trong lĩnh vực KH-CN.
GS. Vịnh là nghiên cứu viên cao cấp, Chủ tịch Hội đồng khoa học của Viện. Giáo sư cùng tập thể PTNTĐ CNTBTV đã đưa nhiều giống mới và quy trình công nghệ mới áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Giáo sư đã công bố 200 trăm bài báo trên các Tạp chí uy tín trong nước và Quốc tế. Giáo sư đã lãnh đạo tập thể chọn tạo và đưa vào sản xuất 19 giống cây trồng được công nhận chính thức và 18 giống tạm thời, 8 qui trình công nghệ đã được Bộ NN&PTNT công nhận và đã chuyển giao cho nhiều Tỉnh thành trong cả nước như: Các giống cam, bưởi, quýt không hạt, năng suất cao và sạch bệnh bằng công nghệ tế bào thực vật phục vụ công nghiệp cam quýt, phát triển công nghiệp cam; Các giống lúa chất lượng, năng suất cao và thích ứng tốt với điều kiện bất lợi đang tham gia chuỗi sản xuất - xuất khẩu gạo chất lượng cao; Các giống mía và công nghệ nhân nhanh giống mía năng suất cao, sạch bệnh bằng công nghệ tế bào thực vật phục vụ công nghiệp Mía – đường…

GS. Vịnh cùng đồng nghiệp chọn tạo giống lúa mới. Đưa nhiều giống lúa vào sản xuất và xuất khẩu.
Là người hoạt động thực tiễn không mệt mỏi, đồng thời GS cũng là người đưa ra các ý tưởng lớn như “Nông nghiệp tinh hoa”, đề xuất xây dựng các khu Nông nghiệp công nghệ cao từ những năm 1990. Đề xuất khu nghiên cứu phát triển rau hoa quả cao cấp xuất khẩu với ý tưởng “Việt Nam - HÀ LAN ở khu vực châu Á; Thanh Hóa, Nghệ An - ISRAEL ở Đông Nam Á”, hay ý tưởng “Phát triển xa lộ nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hóa đường Hồ Chí Minh”. Với Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, sau 50 năm hoạt động, GS. Vịnh để lại một gia tài lớn, đó là cơ sở vật chất từ phòng thí nghiệm đến đồng ruộng, các vật liệu, kỹ thuật và công nghệ. Và đáng nói hơn cả là đội ngũ cán bộ lớn mạnh, đang là cán bộ quản lý và nghiên cứu khoa học trình độ cao tại các viện, trường đại học và các doanh nghiệp.
Ghi nhận những đóng góp, cống hiến lớn lao của GS.TS Đỗ Năng Vịnh cho ngành nông nghiệp nước nhà, Đảng, Nhà nước đã trao tặng ông nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý như: Huân chương Lao động hạng nhì, Bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ…