24/12/2025 lúc 00:43 (GMT+7)
Breaking News

GS.TS Trương Đình Dụ: Những nấc thang tự hào

GS.TS Trương Đình Dụ - nguyên Phó Viện trưởng, nguyên Bí thư Đảng ủy Viện Khoa học Thủy lợi (nay là Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam), là một nhà khoa học bám sát thực tế và đã có nhiều đóng góp quan trọng, ý nghĩa cho sự phát triển của nền khoa học Thủy lợi Việt Nam.

GS.TS Trương Đình Dụ - nguyên Phó Viện trưởng, nguyên Bí thư Đảng ủy Viện Khoa học Thủy lợi (nay là Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam), là một nhà khoa học bám sát thực tế và đã có nhiều đóng góp quan trọng, ý nghĩa cho sự phát triển của nền khoa học Thủy lợi Việt Nam.

GS.TS Trương Đình Dụ sinh ra trên quê hương Xuân Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Vượt qua những khó khăn, nhọc nhằn của học trò nghèo, với tính cách chăm chỉ học tập, ông được xếp thứ nhất lớp 7a trường cấp hai Can Lộc và thi đỗ vào lớp 8, trường cấp 3 Phan Đình Phùng Hà Tĩnh, với tỷ lệ chọi 1/12, xếp thứ 3 trong số 120 người trúng tuyển. Tốt nghiệp THPT, ông đã thi đỗ vào ngành Thủy lợi, trường ĐH Bách Khoa Hà Nội. Nhờ không ngừng nỗ lực học tập, ông tốt nghiệp kỹ sư và được phân công về Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, nhưng phần muốn gần nhà, phần cũng để góp sức phục vụ quê hương, luôn chịu cảnh hạn hán, lụt lội khắc nghiệt, nên ông đã xin về công tác ở Ty Thủy lợi Hà Tĩnh. Bằng kiến thức, sự tận tâm làm việc, ông đã được giao phụ trách bộ phận (phòng) quản lý công trình và tưới, tiếp đến là phụ trách bộ phận (phòng) khoa học kỹ thuật của Ty. Gắn bó với Ty Thủy lợi tuy chỉ 3 năm, nhưng ông đã để lại những dấu ấn, về một kỹ sư trẻ có năng lực và tâm huyết với nghề: Ông đã đóng góp ý kiến với Bộ Thủy lợi và Tỉnh về nguyên nhân sạt trượt mái đập, trong thi công ở đập Thượng Tuy; là nòng cốt trong công tác tưới tiêu khoa học ở Hà Tĩnh. Ông được ban lãnh đạo Tỉnh cử ra Bộ Thủy lợi để đi học NCS và được Bộ Đại Học và Trung học chuyên nghiệp gửi ông đến trường ĐH Xây dựng Matxcơva, Liên Xô cũ. Đây là những năm tháng gian khó và thử thách lớn với điều kiện tiếng Nga mới bắt đầu học, chưa có kinh nghiệm làm nghiên cứu khoa học, kiến thức cơ bản rơi rụng,... GS.TS Trương Đình Dụ đã thực hiện lời dạy của thầy Nguyễn Văn Quỳ: “Muốn làm được luận án TS thì phải cày, cày và cày”. Thực hiện phương châm đó, ông đã chọn được đề tài và thực hiện các bước nghiên cứu, để viết xong luận án TS  vào giữa năm  1971 đạt kết quả tốt. Đầu năm 1972, sau khi bảo vệ thành công luận án TS và trở về nước, GS.TS Trương Đình Dụ công tác tại Viện Khoa học Thủy lợi (nay là Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam). Và từ đây, các đề tài, công trình nghiên cứu ý nghĩa của ông cứ lần lượt ra đời.

GS.TS Trương Đình Dụ trao đổi cùng PV Tạp chí Việt Nam hội nhập tại văn phòng làm việc.

Từ năm 1974 đến năm 1976, ông được cử làm chủ nhiệm nghiên cứu công trình đập Đáy kiểu Mái nhà (Hà Tây cũ). Đây là công trình phân lũ cho Hà Nội được xây dựng từ năm 1937, nhưng các đợt phân lũ đều thất bại. Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đã nghiên cứu góp ý nhưng chưa giải quyết được. Giáo sư đã nghiên cứu và tìm ra nguyên nhân là do roăng cao su giữa mái thượng và hạ lưu không kín nước. Khi cải tạo lại thành kiểu cửa quạt, Giáo sư lại tìm ra nguyên lý mới về điều áp ở cửa van này, làm cho cửa quạt đập Đáy vận hành tốt. Mô hình đập Đáy này được TƯ Đoàn Thanh niên đưa đi dự triển lãm sáng tạo tuổi trẻ Matxcơva và được tặng Huy chương Đồng. Đến năm 1977 - 1978, ông được giao làm Chủ nhiệm Nghiên cứu cải tạo cửa xả cát Đô Lương (Nghệ An). Đây là cửa van clape tự động thủy lực, nhưng không làm việc được như thiết kế, nhiều chuyên gia nghiên cứu nhưng không giải quyết được. GS.TS Trương Đình Dụ đã tìm được nguyên nhân, đề xuất giải pháp tăng khuếch đại lực ở bánh xe cam và đã ứng dụng để sửa chữa thành công trong thực tế. Sau đó ông cùng nhóm nghiên cứu vào tìm hiểu thực tế và yêu cầu về thủy lợi của ĐBSCL. Ấn tượng sâu sắc với thiên nhiên và tầm quan trọng của vùng đất này, tạo cho ông thêm say mê sáng tạo khoa hoc để đóng góp, cống hiến những giải pháp công trình thủy lợi nơi đây. Năm 1981 - 1985, ông là Chủ nhiệm đề tài cửa van tự động cống vùng triều, mã số 06-04-01-02, đề tài đã tìm ra được 5 loại cửa van. Trong đó có cửa van cánh cửa tự động được ứng dụng phổ biến rộng rãi ở các cống vùng ĐBSCL. Năm 1984, khi ông cùng kỹ sư Tăng Đức Thắng, nay là GS.TS nguyên PGĐ Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, chứng kiến cửa van cánh tự động ở cổng C2, Phú Hữu, huyện Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh mà các ông trực tiếp chỉ đạo thi công, tự động đóng mở theo con triều, đúng như tính toán của mình về độ lệch trục của cửa van cánh cửa tự động. Kỷ niệm này được lặp lại lần nữa khi ông vào kiểm tra cống Đò Điểm (Hà Tĩnh) vào năm 2008, ông cùng các đồng nghiệp đang xem dòng chảy êm xuôi về hạ lưu ở 12 cửa cổng thì chỉ mấy phút sau triều lên và 12 cửa tự động đóng về rất êm một cách ngỡ ngàng như có phép màu điều khiển. Đây là loại cửa van tự động cống vùng triều, không những có hiệu quả về kinh tế và quản lý mà đặc biệt là có hiệu quả về cải tạo đất chua mặn. Nhờ vậy năm 2000 GS.TS  Trương Đình Dụ và kỹ sư Trần Tuấn Bửu đã được tặng giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ “cửa van tự động trong công trình thủy lợi vừa và nhỏ”. Với những công trình, những đề tài khoa học hiệu quả, thiết thực, và uy tín của mình, năm 1984, ông đã được phong hàm PGS, năm 1992, ông được phong hàm Giáo sư. Năm 1990, ông được đề bạt làm Phó Viện trưởng và liên tục được tín nhiệm giữ chức Bí thư Đảng ủy Viện. Ông giữ các chức vụ này đến năm hết tuổi quản lý (1999). 

Đặc biệt, năm 1992-1995, GS.TS Trương Đình Dụ làm chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước KC12-10a “ Ứng dụng công nghệ tiên tiến tìm giải pháp tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển” Đề tài đã tìm ra hai công nghệ mới để xây dựng cống vùng ven biển. Đó là: Cụm công trình ngăn sông bằng Đập trụ đỡ và Đập xà lan. Để tạo ra đập trụ đỡ, GS đã sử dụng ba nguyên lý ổn định mới: chịu lực bằng ngàm cọc vào nền, chống thấm bằng tường cừ cắm vào nền và chống xói bằng thả thảm đá, thay cho các nguyên lý cũ của cống truyền thống. Nhờ những nguyên lý ổn định mới này, đập trụ đỡ được thi công ngay trong dòng chảy, nên giảm được nhiều khối lượng xây lắp so với cống truyền thống, phải thi công trong hố móng khô. Còn đập xà lan, GS đã sử dụng hai nguyên lý của cống truyền thống về chịu lực và thấm, đồng thời sử dụng ba nguyên lý ổn định mới về xói,lún và tính nổi. Đập xà lan được chế tạo nơi khác thuận lợi hơn, rồi lai dắt đến vị trí xây dựng đểđánh đắm, trên nền tự nhiên. GS lại cho ra đời đập bản dầm, cùng loại đập hạ chìm, nhưng có nhiều ưu việt hơn đập xà lan.Những loại đập này được ứng dụng rộng rãi trong thực tế, vì có hiệu quả cao hơn nhiều so với kiểu cống truyền thống. Có thể coi những loại cống này là cuộc cách mạng về công nghệ xây dựng cống vùng ven biển và là đóng góp có ý nghĩa lớn về khoa học, công nghệ và kinh tế xã hội cho đất nước. Hiện nay nhiều ý kiến cho rằng nhờ có công nghệ đập trụ đỡ, nước ta mới xây dựng được những cống lớn ở sông sâu và rộng với giá thành và thời gian thi công giảm gần 50% so với công nghệ truyền thống.  Nhờ vậy,năm 2012, Giáo sư đã thay mặt nhóm nghiên cứu Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam tới nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ “Cụm công trình đập trụ đỡ và đập xà lan” trong buổi lễ rất long trọng. Đây là giải thưởng đầu tiên trong ngành xây dựng hạ tầng cơ sở.

Miệt mài làm việc và cống hiến cả sự nghiệp vẻ vang, GS.TS Trương Đình Dụ đã vinh dự được nhận nhiều giải thưởng khoa học công nghệ cao quý như : Huy chương Sáng tạo tuổi trẻ Moskva năm 1976 về điều tiết áp lực trong buồng van quạt bằng hai hàng lỗ trên mặt cửa quạt ; Giải thưởng Vifotex về đập trụ đỡ năm 2003 ; Giải thưởng Vifotex về đập xà lan năm 2006 ; Giải thưởng công trình xuất sắc của Hội Kỹ sư châu Á về đập xà lan di động năm 2007 ; Giải thưởng Nhà nước năm 2000 và Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012 về khoa học công nghệ…Bên cạnh đó là 10 bằng độc quyền sáng chế đã đăng ký trong đó có 7 bằng đã được cấp chứng nhận độc quyền sáng chế đều do ông làm chủ nhiệm đề tài.