22/06/2025 lúc 00:11 (GMT+7)
Breaking News

PGS.TS. Đỗ Văn Hứa: Nhìn lại một hành trình đáng nhớ

Nhắc đến ông, là nhắc đến những cống hiến đáng trân trọng trong sự phát triển của ngành thủy lợi, thủy điện những năm qua. Có dịp trò chuyện cùng ông, chúng tôi cùng lắng đọng, chiệm nghiệm lại hành trình của một nhà khoa học nhiệt thành, nhà quản lý giàu tâm huyết với sự nghiệp nghiên cứu khoa học vinh quang. Ông là PGS.TS. Đỗ Văn Hứa – nguyên Phó hiệu trưởng Thường trực trường Đại học Thủy Lợi.

PGS.TS Đỗ Văn Hứa – nguyên Phó hiệu trưởng Thường trực trường Đại học Thủy Lợi.

PGS.TS Đỗ Văn Hứa sinh năm 1945, nguyên quán ông tại xã Hồng Giang, huyện Đông Hưng, Thái Bình - sinh ra từ một làng quê nghèo mà cuộc sống của người nông dân hết sức khó khăn. Vượt qua những gian khó, nhọc nhằn ngày thơ bé, luôn mang ý chí, tinh thần nỗ lực, phấn đấu học tập vươn lên trong cuộc sống. Tốt nghiệp phổ thông, ông dự thi và đỗ ngay vào trường “ Học viện Thủy lợi Điện lực”, nay là ĐH Thủy Lợi (ĐHTL)và học tại khoa Công trình từ 1964 – 1969.

Vừa miệt mài học tập, vừa tham gia các hoạt động chung, sau khi tốt nghiệp ĐH, ông được giữ lại trường làm công tác giảng dạy. Thời gian này, ông không ngừng trau dồi, tu dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác. Năm 1978, thi đỗ cuộc tuyển chọn đi học NCS nước ngoài, Đỗ Văn Hứa đã làm NCS 4 năm tại trường ĐH Xây dựng Matxcơva. Về nước, ông tiếp tục giảng dạy tại ĐH Thủy Lợi. Nhớ lại khi đó, là một người cán bộ trẻ, ông rất nhiệt tình với công tác Đoàn, Công Đoàn, Đảng từ cấp Khoa đến cấp trường. Với những thành tích xuất sắc trong công tác và kinh nghiệm quản lý, ông đảm nhận vai trò Chủ nhiệm Bộ môn, trưởng phòng khoa học, Chủ nhiệm Khoa, BGH (Phó Hiệu trưởng). Suốt quá trình 8 năm từ năm 1997 – 2005, ông nhận nhiệm vụ Phó hiệu trưởng thường trực.

Đi sâu vào hướng nghiên cứu chính, có thể nói, ngay khi còn trẻ, PGS.TS Đỗ Văn Hứa đã tập trung học tập, nghiên cứu các vấn đề lý thuyết cơ bản. Trong quá trình giảng dạy, ông đã làm chủ nhiệm 6 đề tài cấp Bộ, công bố khoảng 28 bài báo trong và ngoài nước, tham gia thiết kế một số công trình thủy lợi thủy điện ở miền Trung và Hà Nội. Đặc biệt, ông luôn trân trọng và chọn lựa hướng nghiên cứu ứng dụng gắn liền với cuộc sống, sản xuất và giúp đỡ bà con nông dân. Một số công trình tiêu biểu của ông phải kể đến trong “Chương trình kiên cố hóa kênh mương” của Bộ NN và PTNT mà ông đã nghiên cứu thành công như “Sản xuất cầu máng xi măng lưới thép vỏ mỏng bằng công nghệ rung”. Đây là một loại hình công trình đẹp, tiết kiệm đất, chống thấm tốt, có thể sản xuất công nghiệp, lắp ráp nhanh, không phụ thuộc thời tiết và giá thành rẻ nên đã được ứng dụng ở nhiều nơi như Hội An, Củ Chi, An Giang, Bình Định, Nam Định, Vĩnh Phúc… Sau 10 năm tích lũy, ông đã biên soạn cuốn “Tiêu chuẩn ngành–Cầu máng vỏ mỏng xi măng lưới thép – Hướng dẫn tính toán thiết kế kết cấu” làm cơ sở cho phát triển loại hình kết cấu này ở Việt Nam. Tiếp đó, ông làm chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu tìm nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục một số tồn tại phát sinh khi vận hành cửa van đập Đáy”. Đây là một trong những công trình chống lũ cho Hà Nội vào loại lớn, hình thức thuộc loại độc đáo ở Việt Nam và thế giới. Công trình được xây dựng từ năm 1937-1940. Qua nhiều năm khai thác sử dung công trình bị xuống cấp, gặp nhiều trục trặc khi vận hành khó đảm bảo an toàn công tác phòng chống lũ cho Thủ đô Hà Nội. Sau hai năm dầy công nghiên cứu, ông và các cộng sự đã tìm ra các nguyên nhân sự cố, đề xuất các phương án gia cố sửa chữa công trình phân lũ sông Đáy góp phần vào việc phòng chống lũ cho Thủ đô Hà Nội. Khi kiểm tra chuẩn bị cho nghiệm thu đề tài về sự làm việc của công trình đập Đáy, trước sự chứng kiến của các thành viên Hội đồng nghiệm thu và khách mời, công trình được chạy thử với giải pháp đề xuất, thấy tiếng nổ nhỏ đi nhiều và thưa hơn, vết nứt ở các mối hàn nhỏ lại, công trình vận hành êm thuận hơn.Như vậy, sau hai năm lao động khoa học nghiêm túc, say mê đã tìm được đúng nguyên nhân và đề xuất được các giải pháp gia cố, sửa chữa cửa van đập Đáy, góp phần đem lại an toàn chống lũ cho Thủ đô Hà Nội.Với thành tựu đạt được, đề tài nghiên cứu đã được tặng giải nhất trong các công trình NCKH khối các trường ĐH và CĐ chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (10/2010).

Bên cạnh đó,nhiều đề tài mang ý nghĩa và có giá trị ứng dụng thực tiễn cao của ông như tham gia xây dựng“Tiêu chuẩn kỹ thuật – thiết kế cửa van bằng thép công trình thủy lợi”.Do nhu cầu ngăn mặn, chống ngập cho thành phố Hồ Chí Minh, trên các dòng sông lớn ở Đồng bằng Sông Cửu Long cần xây dựng các cửa van phẳng bằng thép nhịp lớn, ông đã tham gia biên soạn “Tiêu chuẩn kỹ thuật - thiết kế cửa van phẳng bằng thép công trình chống ngập khu vực Thành phố HCM“. Đây là tài liệu kiểm soát được quá trình thiết kế thi công, lắp đặt đang áp dụng làm sao kiểm soát được quá trình thiết kế, thi công, lắp đặt các cửa van phẳng nhịp lớn, áp dụng các công nghệ mới trong thiết kế, sử dụng vật liệu, vận chuyển, lắp đặt cửa van trong điều kiện làm việc của Đồng bằng Sông Cửu Long.

Và năm 2014, ông cùng cộng sự đã hoàn thành cuốn sách “Cửa van và thiết bị đóng mở trong công trình thủy lợi thủy điện”. Cuốn sách ra đời với tâm huyết gần 40 năm ông đã tích lũy trong giảng dạy và nghiên cứu, thâm nhập thực tế, khảo sát sự làm việc của các loại cửa van trong phạm vi toàn quốc. Đây là một cuốn sách lần đầu tiên được biên soạn ở Việt Nam. Cuốn sách có nội dung thiết thực, có thể dùng phục vụ giảng dạy cho sinh viên, học viên cao học và NCS ngành công trình thủy, ngành cơ khí thủy lợi, dành cho các nhà tư vấn làm tài liệu thiết kế các loại cửa van và thiết bị đóng mở trong công trình thủy lợi, thủy điện.Sau nghỉ hưu cho đến nay ông vẫn say sưa với công tác KH và công nghệ như tham gia làm PCT Hội kết cấu và công nghệ xây dựng Việt Nam, Trưởng ban khoa hoc công nghệ của Tổng hội xây dựng Việt Nam. Những năm 2015, 2016 ông vẫn trực tiếp tham gia hai đề tài nghiên cứu khoa học của Liên hiệp hội KH Việt Nam liên quan đến ý tưởng xây dựng công trình đập dâng nước trên sông Hồng, sông Hóa nhằm giải quyết vấn đề thiếu nước vào mùa kiệt phục vụ nhiệm vụ lấy nước tưới cho nông nghiệp.

Với những cống hiến đáng trân trọng xuyên suốt chặng đường dài đã qua cho ngành giáo dục nước nhà, PGS.TS Đỗ Văn Hứa đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các Bộ, ban ngành trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Lao động hạng 3 (2005), danh hiệu NGƯT (2002), cùng nhiều Bằng khen của Chính phủ và Bộ. Ngoài ra ông còn được phong danh hiệu CSTĐ nhiều năm liền, danh hiệu Người tốt, việc tốt do UBND TP Hà Nội phong tặng. Có thể nói, PGS.TS Đỗ Văn Hứa đã lựa chọn cho mình một con đường riêng, vượt qua những khó khăn, thử thách, ông đã vươn tới chân trời trí thức mang lại những thành công, và là những đóng góp trân trọng cho sự phát triển của nước nhà.

Tiến Đức