16/08/2025 lúc 09:47 (GMT+7)
Breaking News

Tìm hiểu về giao lưu và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc trong quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển. Quá trình đầy gian nan thử thách ấy đã dẫn Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lênin, nghĩa là từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến giao lưu và hội nhập quốc tế. Bài viết đề cập một số quan điểm đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, về nguyên tắc, về sự đa dạng hoá hình thức giao lưu và hội nhập quốc tế trong các bối cảnh lịch sử khác nhau.

Từ khoá: tư tưởng Hồ Chí Minh, giao lưu, hội nhập quốc tế

Ảnh minh họa - TL

ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ hàng nghìn năm trước, trên phương diện quốc gia, ông cha ta cũng đã có những mối bang giao với nước ngoài, có bang giao về kinh tế, bang giao về chính trị và bang giao về văn hóa… Tuy là một nước không lớn, nhưng trong các mối bang giao, Việt Nam luôn thể hiện vị thế của một quốc gia có chủ quyền, có đại nghĩa, có chí nhân, đầy khoan dung, ngay cả khi mất nước cũng quyết không khuất phục trước bất cứ thế lực nào, luôn tìm mọi cách và nung nấu ý chí giành lại độc lập dân tộc. Đến thời hiện đại, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ba mươi năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ chế độ thực dân phong kiến áp bức bóc lột, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á là minh chứng về một dân tộc luôn biết tiếp thu những gì tốt đẹp nhất của tinh hoa văn hoá nhân loại, kết hợp hài hòa giá trị của dân tộc và giá trị của thời đại, phát triển những giá trị đó lên một tầm cao mới để xây dựng chế độ mới. Điều đó cũng có nghĩa là giao lưu và hội nhập quốc tế trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được hình thành từ rất sớm và tiếp tục phát triển sáng tạo, phù hợp quy luật khách quan trong các giai đoạn cách mạng sau này.

NỘI DUNG

1. Tìm thấy con đường giải phóng dân tộc từ chủ nghĩa Lênin - tinh hoa văn hóa của nhân loại

Vào tuổi thanh niên, Nguyễn Ái Quốc được chứng kiến các phong trào yêu nước do Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám khởi xướng và lãnh đạo, được kiểm nghiệm trong thực tiễn và bộc lộ những hạn chế cơ bản không thể vượt qua để chiến thắng kẻ thù cướp nước. Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tán thành con đường của các cụ. Sau nhiều năm bôn ba, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản ở trong chủ nghĩa Lênin - tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người đã kể lại: "Lúc bấy giờ tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng cho đồng bào mình... Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà" ấy (hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) đã đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu. Hồi ấy, trong các chi bộ của Đảng Xã hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên ở lại trong Quốc tế thứ hai, hay là nên tổ chức một quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia Quốc tế thứ ba của Lênin? Tôi dự rất đều các cuộc họp... Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến.... Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy? Với Quốc tế thứ hai, hoặc thứ hai rưỡi, hay thứ ba, thì người ta cũng đều làm được cách mạng cả, sao lại phải cãi nhau?...

Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên... Có mấy đồng chí trả lời: Đó là quốc tế thứ ba, chứ không phải quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo... Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao ! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"1. Đi theo con đường của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945 lịch sử, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, lãnh đạo đất nước đánh thắng hai đế quốc to, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Hơn 100 năm sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chứng kiến những dòng người từ khắp nơi trên thế giới vẫn thành kính vào lăng viếng V.I.Lênin tại Quảng trường Đỏ của Thủ đô Matxcơva, chúng ta sẽ hiểu đầy đủ hơn vì sao Nguyễn Ái Quốc lại vui mừng đến phát khóc lên khi đọc Luận cương của Lênin.

2. Về vai trò của giao lưu và hội nhập quốc tế

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ rất sớm đã nhận ra vai trò của giao lưu và hội nhập quốc tế trong sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như của khu vực và thế giới. Trước khi bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba để trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trong bài báo "Vấn đề bản xứ" đăng trên báo Nhân đạo số ra ngày 2-8-1919, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: "Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển của chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường"2. Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy vai trò của chủ nghĩa quốc tế quan trọng như thế nào trong quá trình phát triển, để mỗi quốc gia ngày một tiến bộ hơn. Tiến bộ gắn liền với văn minh, giống như những nấc thang để xã hội ngày càng phát triển cao hơn. Khi đó văn minh sẽ là yếu tố kết nối đặc biệt, giúp cho các quan hệ quốc tế được mở rộng, tăng cường. Đó là một mối quan hệ biện chứng. Người thanh niên 29 tuổi Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy xu thế toàn cầu hóa sớm hay muộn cũng sẽ xuất hiện: "Là phi lý nếu nghĩ rằng hai dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể cứ tồn tại biệt lập đối với nhau"3. Với Nguyễn Ái Quốc, đó là vấn đề có tính nguyên tắc. Ở một mức độ cao hơn, có thể nói đó là vấn đề có tính quy luật mà với một nhãn quan thiên tài, lại được mắt thấy tai nghe ở những quốc gia Người đã đặt chân đến, chứng kiến và nghiên cứu các cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bất công, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận ra. Vì vậy, năm 1921, tại Paris (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa và tháng 7-1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí của Người đã thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức là một tổ chức quốc tế bao gồm người Việt Nam, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người Triều Tiên, người Indonêxia, người Miến Điện (nay là Myanma)... Tuyên ngôn của Hội đã khẳng định: "Con đường thoát duy nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là Liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới, áp dụng những phương pháp cách mạng để lật đổ về căn bản chủ nghĩa tư bản đế quốc".

Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc hiểu rất rõ độc lập dân tộc không có nghĩa là tách biệt một quốc gia với thế giới, mà độc lập dân tộc phải đặt trong mối quan hệ với sức mạnh của thời đại. Khi chưa giành được chính quyền, sự liên kết của các quốc gia bị áp bức, của giai cấp vô sản toàn thế giới sẽ tạo ra sức mạnh cả về vật chất và tinh thần để những dân tộc nhỏ yếu đấu tranh lật đổ chế độ áp bức, bóc lột. Đó không chỉ là khẩu hiệu, là lời kêu gọi mà thực tiễn đã chứng minh, trong đó có Cách mạng Tháng Tám 1945 tại Việt Nam. Khi đã giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định đoàn kết với nhân dân tiến bộ thế giới sẽ tạo ra sức mạnh của thời đại để đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công. Trình bày Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta kháng chiến thắng lợi, một phần là nhờ sự đồng tình của các nước bạn và nhân dân thế giới. Vì vậy chúng ta phải củng cố tình thân thiện giữa nước ta và các nước bạn, giữa dân ta và nhân dân các nước trên thế giới”4.

3. Nguyên tắc của giao lưu và hội nhập quốc tế

Trong giao lưu và hội nhập quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần "thân mật đoàn kết", theo nguyên tắc hợp pháp, hợp lý và đặc biệt là "kính trọng lẫn nhau" trên tinh thần anh em. Tinh thần đó bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc Việt Nam là "Thương người như thể thương thân", là "Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Nghĩa là giao lưu và hội nhập quốc tế trên tinh thần khoan dung văn hóa, theo truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta đã trải nghiệm, đã đúc kết từ thực tiễn. Trong ngày tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho anh em Hoa kiều, nêu rất rõ: "Tôi xin thay mặt Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam và toàn dân Việt Nam đưa bàn tay nồng nhiệt hoan nghênh anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo nguyên tắc hợp pháp, hợp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau"5.

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giao lưu và hội nhập quốc tế phải trên cơ sở những giá trị văn hóa của dân tộc và thực tiễn bối cảnh trong nước và quốc tế, có tính lịch sử, cụ thể để không bị hòa tan, để không đánh mất bản sắc của mình, để không trở thành cái bóng mờ của người khác. Tháng 11-1965, khi chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã keo thang ra miền Bắc, trả lời giáo sư Mỹ Lainớt Polinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Dân tộc Việt Nam chúng tôi vốn yêu chuộng tự do và hòa bình. Nguyện vọng tha thiết của nhân dân nước chúng tôi là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh"6. Những giá trị văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao là hòa bình, thống nhất, tự do, độc lập, dân chủ, giàu mạnh cũng là nguyện vọng phổ quát với nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng đối với Việt Nam lúc đó, khi mà chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai gây ra vô cùng tàn khốc, hàng nghìn đồng bào và chiến sĩ ta đã ngã xuống bởi bom đạn Mỹ, càng đặc biệt có ý nghĩa. Bởi những giá trị đó đã được biết bao thế hệ người Việt Nam hun đúc nên bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu xương của mình trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dần trở thành cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết thành chân lý bất hủ: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"7.

4. Đa dạng hình thức giao lưu và hội nhập quốc tế

Giao lưu và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là "Tứ hải giai huynh đệ" nên phải đa dạng, linh hoạt, vừa mềm dẻo, vừa cương quyết trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc, không bao giờ hy sinh lợi ích của đất nước, của nhân dân. Ngày 30-5-1946, trong cuộc mít tinh của nhân dân Hà Nội tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp, Người nói: "Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân... Nhân dịp này, tôi cũng có vài lời tỏ cùng các bạn người Pháp, người Tàu và các bạn kiều dân khác. Các bạn sống chung với nhân dân Việt Nam... Vậy nên nhân dân Việt Nam là bằng hữu của các bạn... Các bạn cùng nhân dân Việt Nam phải tương kính tương thân, thành thật hợp tác, êm ấm thuận hòa, thực hiện chữ "Tứ hải giai huynh đệ""8. Hôm sau, ngày 31-5-1946, trước khi lên đường sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, Chủ tịch Hồ Chí Minh có trao đổi với Cụ Huỳnh Thúc Kháng - khi đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" như một triết lý chứa đựng rất nhiều hàm nghĩa về lấy cái bất biến để ứng phó với cái vạn biến mà giữ nước. Trong phương châm ứng xử này, chiến lược giữ nước là không thay đổi, nhưng sách lược lại cần rất linh hoạt, phù hợp điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Phương châm ấy không chỉ áp dụng trong việc giữ nước, mà còn có thể mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác, trong đó có giao lưu, hội nhập quốc tế về kinh tế, văn hóa, xã hội...

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù giao lưu, hội nhập về chính trị, kinh tế, hay xã hội... thì lĩnh vực nào cũng thấm được yếu tố văn hóa, giá trị nhân văn và khoan dung... Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc, Liên Xô. Sau ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa anh em như Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hoà Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari… mà còn đi thăm các nước bè bạn khác như Ấn Độ, Miến Điện (nay là Myanma), Inđônêxia…Những chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh để cảm ơn các nước anh em và bầu bạn đã ủng hộ nhân dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường mối quan hệ hữu nghị về nhiều mặt với các nước, đồng thời xây dựng mặt trận nhân dân thế giới chống đế quốc xâm lược, vì hòa bình của thế giới, của Việt Nam. Đi thăm các nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tiếp xúc với các chính khách, mà còn dành thời gian gặp gỡ, giao lưu với các tầng lớp nhân dân, với những người lao động, với các cháu thiếu nhi. Ở bất cứ nước nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được đón tiếp vô cùng nồng hậu và Người cũng thể hiện vô cùng ấn tượng không chỉ vị thế của một cá nhân, mà là tầm vóc của một dân tộc anh hùng yêu chuộng hòa bình, công lý, vĩ đại mà giản dị, gần gũi như những người thân yêu trong một nhà. Có một sự kiện đặc biệt trong chuyến thăm Pháp năm 1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về ở trong căn nhà của ông Raymông Ôbrắc, ngày 15-8-1946, bà Luyxi (vợ ông R.Obrắc) sinh một bé gái, đặt tên là Êlidabét. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân đến bệnh viện thăm và chúc mừng hai mẹ con bà Luyxi. Người đặt tên cho Êlidabét là Babét f đã đicHf

và nhận bé Babét làm con đỡ đầu. Sau này, dù bận trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn nhớ ngày sinh nhật của Babét để gửi quà và lời chúc mừng con gái đỡ đầu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đón tiếp rất nhiều nhà lãnh đạo của nhiều tổ chức quốc tế, lãnh đạo các nước châu Âu, châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh, đón tiếp nhiều cá nhân nổi tiếng trên thế giới. Người đón các nhà lãnh đạo của Lào, Campuchia, Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba... gặp gỡ và trả lời phỏng vấn hàng chục nhà báo quốc tế. Đón tiếp khách quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chu đáo, ân cần, tỷ mỉ đến từng chi tiết, từ cái bắt tay, ôm hôn, diễn văn, tiệc chiêu đãi, chụp ảnh... thể hiện đầy đủ truyền thống hiếu khách, chân thành, lịch lãm của văn hóa Việt Nam. Ngày 10-3-1963, đón tiếp vua Lào Xri Xavang Vátthana và Đoàn đại biểu Lào sang thăm Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoan nghênh hầu như không thiếu một ai trong đoàn.

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giao lưu, hội nhập quốc tế cần cầu thị, học hỏi lẫn nhau, học hỏi rồi sáng tạo cách làm mới chứ không phải rập khuôn máy móc. Nói chuyện với Đoàn Công an Cu Ba, Người ân cần gợi mở: "Công an Cu Ba có nhiều kinh nghiệm giới thiệu cho Công an Việt Nam. Công an Việt Nam cũng giới thiệu một số kinh nghiệm cho Công an Cu Ba. Hai bên học tập lẫn nhau. Nhưng khi học tập lẫn nhau phải sáng tạo, phải học tập và sáng tạo. Học tập và sáng tạo đi liền với nhau"9. Tháng 2-1968, trong bức thư gửi đồng chí Tố Hữu, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ý kiến: "Trung Quốc có nhiều phim về khoa học kỹ thuật xem rất bổ ích, những phim này ngắn gọn, dễ hiểu, một tiếng đồng hồ có thể chiếu ba bộ. Điện ảnh ta nên giao thiệp, mượn hoặc xin về chiếu cho nhân dân ta xem. Chú Hai nói ở Hung có những phim về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, những phim này khá tốt, về kỹ thuật thì khá hơn phim của ta. Điện ảnh ta cũng nên mượn về chiếu"10.

Với chủ trương mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế, thêm bạn, bớt thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể làm tất cả những gì có lợi cho dân, cho nước, cho hòa bình thế giới, cho tình đoàn kết các quốc gia, dân tộc. Người không bao giờ quên gửi thư hoặc điện mừng anh em, đồng chí, bạn bè, các tổ chức quốc tế luôn đấu tranh cho hòa bình. Người điện mừng quốc khánh, Đại hội Đảng, mừng năm mới nhiều nước, mừng Liên Xô đưa thành công trạm đổ bộ lên mặt trăng, mừng Liên Xô thực hiện thành công chuyến bay đầu tiên đưa phi công Gagarin vào vũ trụ, đặt tên phi công vũ trụ G. Titốp cho một hòn đảo trong Vịnh Hạ Long. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng sinh nhật nhiều nhà lãnh đạo của thế giới như Nêru, Brêgiơnép... Người tiếp rất nhiều đại sứ các nước ở Hà Nội đến trình quốc thư. Nhiều nước bị thiên tai, bão lũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời gửi thư thăm hỏi...

Trong giao lưu, hội nhập quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương "Tứ hải giai huynh đệ", nên không phân biệt chế độ chính trị khác nhau, nòi giống khác nhau, trình độ khác nhau, nhưng cũng luôn phải phân biệt rõ bạn - thù, phải kiên quyết đấu tranh với những thứ phi văn hoá, phản văn hoá. Người phân biệt rõ thực dân Pháp xâm lược với nhân dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược với nhân dân Mỹ. Thực dân Pháp xâm lược, đế quốc Mỹ xâm lược gây chiến tranh phi nghĩa, tàn sát nhân dân Việt Nam, nhưng nhân dân lao động Pháp, nhân dân lao động Mỹ cũng là những người yêu hòa bình, tự do, bình đẳng, bác ái, họ không ngừng đấu tranh vì hòa bình, đòi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam, họ là bạn của nhân dân Việt Nam. Tháng 10-1945, khi thực dân Pháp đã nổ súng tấn công ta tại Nam Bộ, trong thư gửi những người Pháp ở Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất thiện chí: "Chúng tôi không ghét, không thù gì dân tộc Pháp. Trái lại chúng tôi kính phục cái dân tộc lớn lao ấy đã là kẻ truyền bá lý tưởng rộng rãi về tự do, bình đẳng và bác ái"11. Ngày 1-1-1966 gửi lời chúc đầu năm đến nhân dân Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Nhân dịp đầu năm mới, tôi thân ái chúc nhân dân Mỹ hòa bình, phồn vinh, hạnh phúc... Tôi nhiệt liệt hoan nghênh và cảm ơn nhân dân Mỹ đã đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam"12. Tương tự như vậy, trả lời một công dân Mỹ tên là Giép Tớcnơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Nhân dân Việt Nam quyết tâm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do. Nhân dân Mỹ có truyền thống yêu chuộng công lý, tự do và hòa bình. Nhân dân Việt Nam rất quý trọng nhân dân Mỹ, muốn đoàn kết với nhân dân Mỹ đang đấu tranh cho các quyền dân chủ và chống chiến tranh xâm lược Việt Nam"13.

KẾT LUẬN

Đã hơn 110 năm kể từ ngày người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong hành trình vô cùng gian khổ ấy, đi qua hàng chục quốc gia, tiếp xúc với nhiều đối tượng trên nhiều châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cách mạng vô sản trong chủ nghĩa Lênin - tinh hoa trí tuệ, tinh hoa văn hoá của nhân loại tiến bộ, đáp ứng niềm mong mỏi của hàng trăm dân tộc bị áp bức, của hàng trăm triệu con người bị đoạ đày đau khổ đang đứng lên đập tan gông xiềng nô lệ. Từ rất sớm đã nhận thức một cách sâu sắc về vai trò của đoàn kết các dân tộc bị áp bức trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, nên từ khi thành lập Đảng, sau này trở thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tư tưởng đồ sộ, trong đó có những quan điểm vô cùng sáng tạo, khoa học, sâu sát thực tiễn trong nước và thế giới về giao lưu và hội nhập quốc tế. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giao lưu và hội nhập quốc tế đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã và sẽ còn dẫn dắt dân tộc ta chủ động hội nhập quốc tế, trở thành một trong những động lực để đất nước vươn mình, đạt được các mục tiêu do Đảng đề ra khi bước vào kỷ nguyên mới.

TS Nguyễn Văn Thắng

_____________________________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2001, t.12, tr. 561-561.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.1, tr. 14.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.1, tr. 14.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 7, tr. 40

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr. 5.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.14, tr. 549.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr. 131.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr. 272-273.

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.9, tr. 139.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr. 433.

11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr. 75.

12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr. 3.

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr. 195.

...