11/09/2025 lúc 16:06 (GMT+7)
Breaking News

Truyền thông di sản văn hóa

Theo Luật di sản văn hóa (2024), di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể, di sản văn hóa vật thể được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa phi vật thể là tri thức, kỹ năng, tập quán, biểu đạt văn hóa cùng đồ vật, đồ tạo tác, không gian liên quan...

Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có một, một số hoặc tất cả giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia... Truyền thông di sản văn hóa có thể hiểu là việc sử dụng các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, internet, mạng xã hội... để truyền tải thông tin, kiến thức, giá trị của di sản văn hóa đến công chúng nhằm nâng cao nhận thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản của công chúng, góp phần phát triển kinh tế-xã hội.

Ảnh minh họa - VNHN

Nhận thức được vai trò, ý nghĩa của truyền thông di sản văn hóa, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đề ra chủ trương: “Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài”, “Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước Ngoài”.

Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 33-NQ/TW (Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, ngày 9-06-2014 đề ra mục tiêu cụ thể:tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam” và nhiệm vụ:Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản vă n hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam…”, “Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam”.

Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1230/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2025, ngày 15- 7- 2021 đề ra các nhiệm vụ chủ yếu: Tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa ở trong nước và nước ngoài; Trưng bày, giới thiệu tại các bảo tảng trong nước và một số bảo tàng, trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài; thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông; Tổ chức các liên hoan, trình diễn di sản văn hóa phi vật thể ở trong nước và quốc tế, các cuộc thi sáng tác, triển lãm về di sản văn hóa.

Điều 86, Luật Di sản văn hóa (2024) quy định về hoạt động truyền thông di sản văn hóa được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; thông qua trưng bày, giới thiệu, hội thảo khoa học, tọa đàm, thi sáng tác, triển lãm về di sản văn hóa; liên hoan, trình diễn di sản văn hóa phi vật thể; hoạt động tìm hiểu, tham quan, học tập về di sản văn hóa gắn kết với chương trình, hoạt động giáo dục trong cơ sở giáo dục; biên soạn, xuất bản tài liệu chuyên ngành về di sản văn hóa...

Thực tiễn cho thấy, hoạt động truyền thông di sản văn hóa những năm qua đã đạt được nhiều kết quả. Truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của công chúng về các loại hình di sản, giá trị, ý nghĩa và tầm quan trọng của di sản trong phát triển kinh tế-xã hội. Công chúng ngày càng tham gia tích cực vào các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản, hỗ trợ vật chất và tinh thần trong việc tu bổ di tích, gìn giữ các di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh, các loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian, tri thức dân gian... Truyền thông phản ánh những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, từ đó giúp các cơ quan chức năng có giải pháp khắc phục kịp thời như phục hồi các di tích bị hư hỏng, xuống cấp, xử lý những hành vi xâm hại di sản… Truyền thông tuyên truyền, kêu gọi công chúng có những hành động cụ thể để bảo vệ, gìn giữ di sản.

Trên góc độ giáo dục, truyền thồng truyền tải kiến thức về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật… thông qua các chương trình, cuộc thi, câu lạc bộ như Chương trình Ngày hội di sản văn hóa Đà Nẵng, cuộc thi ảnh “Áo dài ngày xuân”, Câu lạc bộ “Em yêu lịch sử” ở Đà nẵng. Các sự kiện liên quan đến các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa quốc gia, di sản văn hóa thế giới được tổ chức tại Nhà tù Hoả Lò, Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử Giám.., góp phần khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc của công chúng. Với việc giới thiệu di sản, truyền thông còn giúp các cơ quan, tổ chức và cá nhân giữa các nền văn hóa, các thế hệ tăng cường quá trình giao lưu, trao đổi các hoạt động văn hóa, bảo tồn, phát huy di sản văn hóa giữa các nền văn hóa và giữa các thế hệ.

Truyền thông quảng bá hình ảnh di sản văn hóa Việt Nam, thu hút du Khách trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Năm 2023, tỉnh Ninh Bình tổ chức Lễ hội Tràng An với chủ đề “Tràng An kết nối di sản” với nhiều hoạt động đặc sắc và hấp dẫn như rước nước, rước rồng, biểu diễn nghệ thuật truyền thống... có tác dụng quảng bá di sản văn hóa rộng rãi đối với du khách trong nước và quốc tế, thúc đẩy phát triển du lịch, tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương,

Nội dung truyền thông đa dạng về các loại hình di sản văn hóa vật thể như di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia… và di sản văn hóa phi vật thể như tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học nghệ thuật, diễn xướng dân gian, lối sống, lễ hội, bí quyết nghề thủ công, tri thức ẩm thực, trang phục truyền thống… Phương tiện truyền thông được sử dụng bao gồm phương tiện truyền thống như truyền miệng, trình diễn, lễ hội, các hình thức nghệ thuật dân gian… và phương tiện hiện đại như internet, mạng xã hội, ứng dụng di động… Nhiều di sản đã được số hóa, xây dựng website và sử dụng các nền tảng mạng xã hội để truyền thông như facebook, fanpage, zalo, youtube, tiktok... từ đó đã mở rộng cơ hội tiếp cận di sản văn hóa của công chúng.

Chủ thể truyền thông đa dạng bao gồm cộng đồng địa phương, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa, các tổ chức truyền thông như báo chí, đài phát thanh, truyền hình… Đối tượng truyền thông được tiếp cận rộng rãi bao gồm cộng đồng như người dân địa phương, người sở hữu di sản, người thực hành di sản, các du khách nội địa, quốc tế, các cá nhân, tổ chức như nhà nghiên cứu, nhà quản lý, nhà đầu tư, người làm du lịch...

Bên cạnh những thành tựu đạt được trên đây, hoạt động truyền thông di sản văn hóa còn có những hạn chế. Nội dung truyền thông di sản còn thiếu cụ thể, sâu sắc, chưa thực sự phong phú, hấp dẫn và nhận được sự quan tâm của đông đảo công chúng. Truyền thông về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về di sản văn hóa chưa được quan tâm đầy đủ. Các kênh truyền thông di sản chưa khai thác được đầy đủ tiềm năng của các phương tiện truyền thông hiện đại. Nhiều nơi còn chậm trễ ứng dụng công nghệ số trong việc quản lý di sản, trưng bày, thuyết minh và cung cấp các dịch vụ.

Nhận thức về vai trò, sự cần thiết của truyền thông di sản văn hóa chưa cao. Nhân lực thực hiện công tác truyền thông còn thiếu và chưa được đào tạo chuyên sâu. Nhận thức, kiến thức của một số cá nhân trong cơ quan truyền thông về di sản văn hóa còn hạn chế. Một số hoạt động truyền thông còn mang tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp. Trong hợp tác truyền thông, còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương. Việc hợp tác quốc tế trong hoạt động truyền thông di sản văn hóa chưa được đẩy mạnh. Về đối tượng truyền thông, một số người dân chưa thực sự hiểu rõ về giá trị của di sản, thậm chí còn có những hành vi xâm hại di sản. Những hạn chế trên đây bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Một số cơ quan quản lý di sản chưa chủ động, tích cực và xem truyền thông như là một phương tiện hiệu quả để truyền thông giá trị di sản tới công chúng. Truyền thông ít quan tâm tới di sản văn hóa do lợi nhuận không cao mà tập trung quảng cáo sản phẩm mang lại lợi nhuận tốt hơn…

Để nâng cao hiệu quả truyền thông di sản văn hóa, về nội dung, cần xây dựng nội dung truyền thông hấp dẫn, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, cung cấp thông tin đầy đủ về di sản văn hóa và các chính sách liên quan. Đẩy mạnh nghiên cứu nhằm nhận thức đầy đủ, toàn diện giá trị của di sản bao gồm giá trị văn hóa di sản và giá trị kinh tế của di sản. Về phương tiện, hình thức truyền thông, cần tăng cường sử dụng công nghệ số, mạng xã hội, và các nền tảng truyền thông hiện đại. Hình thức truyền thông cần hấp dẫn, dễ hiểu như sử dụng hình ảnh, âm thanh, ngôn ngữ phù hợp với từng đối tượng, dễ tiếp cận... Đa dạng hóa các hình thức truyền thông, trong đó quan tâm công nghệ số tạo ra các loại hình truyền thông mới, hình thành quan hệ hai chiều từ chủ thể truyền thông đến công chúng và ngược lại. Thực hiện tương tác, đối thoại nhằm tạo cơ hội để công chúng trao đổi, chủ động, tích cực tham gia truyền thông.

Mỗi loại hình truyền thông có chức năng phù hợp. Báo chí, truyền hình, truyền thanh đăng tải tin bài, phóng sự, chương trình... về di sản và các chính sách liên quan. Mạng xã hội chia sẻ thông tin, hình ảnh về di sản... Ấn phẩm truyền thông in ấn các loại sách, tờ rơi, poster... Sự kiện liên quan đến di sản được tổ chức như hội thảo, tọa đàm, triển lãm, cuộc thi, lễ hội... Hoạt động du lịch di sản là xây dựng các tour du lịch khám phá di sản kết hợp với các hoạt động trải nghiệm văn hóa. Các chương trình giáo dục di sản được thực hiện tại trường học, cộng đồng... Loại hình truyền thông được xây dựng phù hợp với từng đối tượng. Với giới trẻ cần phát triển truyền thông trên mạng xã hội, với vùng sâu, vùng xa, miền núi cần các kênh truyền thông như tờ rời, truyền hình... Đánh giá chất lượng, hiệu quả của truyền thông thường xuyên để có những điều chỉnh phù hợp.

Chủ thể truyền thông cần có kiến thức và kỹ năng toàn diện thông qua đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ thuyết minh, kĩ năng truyền thông... Đội ngũ làm công tác quản lý di sản văn hóa cần có chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu di sản... Các cơ quan quản lý về di sản văn hóa định hướng và cung cấp thông tin để truyền thông di sản văn hóa một cách chính thống, kịp thời, phối hợp, trao đổi thông tin về di sản với các cơ quan truyền thông. Các cơ quan truyền thông bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức về di sản cho đội ngũ phóng viên. Hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức, địa phương và doanh nghiệp cũng như giữa các cơ quan, ban, ngành của địa phương trong công tác truyền thông về di sản cần được quan tâm mở rộng.

Về đối tượng, nhận thức đầy đủ về đặc điểm và nhu cầu của đối tượng truyền thông. Môi trường truyền thông ngày càng đa dạng giúp công chúng thay đổi từ chủ thể tiếp nhận thụ động trở thành các chủ thể tiếp nhận chủ động và trực tiếp tham gia vào quá trình truyền thông. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về di sản cho thế hệ trẻ. Để có thể tiếp cận được phương tiện truyền thông, công chúng phải có điều kiện và trình độ đáp ứng yêu cầu sử dụng các thiết bị như máy tính để bàn, điện thoại thông minh... và kỹ năng sử dụng thiết bị.

Truyền thông có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của công chúng về loại hình, giá trị và ý nghĩa của di sản văn hóa. Hoạt động truyền thông di sản văn hóa đã đạt được những thành tựu trong việc nâng cao nhận thức công chúng về di sản văn hóa, động viên, khuyến khích công chúng tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần phát triện kinh tế-xã hội. Bên cạnh đó, hoạt động truyền thông di sản văn hóa còn có những hạn chế do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Để nâng cao hiệu quả truyền thông di sản văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cần thiết hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ về nội dung, hình thức, phương tiện truyền thông, chủ thể, đối tượng truyền thông và các giải pháp khác… Truyền thông di sản văn hóa cần được quan tâm và đầu tư hơn nữa để phát huy đầy đủ vai trò trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần phát triển kinh tế-xã hội.

Trần Lê Thanh, Nguyễn Đắc Dũng, Lê Thị Dung

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi

Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW của Đảng Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,

https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-chin-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-xay-dung-va-phat-trien-van-hoa-con-nguoi

Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1230/QĐ-TTg Hà Nội, ngày 15- 7- 2021 Phê duyệt Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa ViệtNam,giaiđoạn20212025,

https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=203660

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2024), Luật Di sản văn hóa,

https://vanban.chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=212473&classid=1&typegroupid=3

...