VNHN - Mái tóc cắt ngắn, ánh mắt thu hút và nụ cười hiền hậu, tươi tắn toát ra vẻ thanh lịch, sự cởi mở là những ấn tượng ban đầu khi tôi được biết đến Chị trong lần công tác tại Viện Hóa học Công nghiệp Việt Nam mới đây. Cuộc trò chuyện thân mật, chân tình cùng Chị - GS.TS. Vũ Thị Thu Hà - Phó Viện trưởng Viện Hóa học Công nghiệp Việt Nam, Giám đốc Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Lọc, Hóa dầu, Bộ Công Thương (KEYLAB PRT) đã giúp tôi thêm hiểu, cảm nhận và khâm phục những đóng góp quan trọng của Chị cũng như KEYLAB PRT với ngành lọc, hóa dầu nước nhà.
PV: Để có một GS.TS Vũ Thị Thu Hà và KEYLAB PRT như hôm nay, hẳn là Chị đã phải đi qua một chặng đường dài ?
GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Xuất phát từ định hướng nghiên cứu, niềm say mê lĩnh vực hóa học cũng như một cơ duyên của cuộc đời, sau khi tốt nghiệp ĐH Bách khoa năm 1992, tôi nhận công tác tại Viện Hóa học Công nghiệp Việt Nam và làm việc tại đây từ đó đến nay. Tích cực học hỏi, trau dồi thêm, năm 1996, tôi đi du học tại Pháp với suất học bổng của Trung tâm NCKH QG Pháp trong 3 năm (1996 - 1999). Tại đây, tôi đã hoàn thành cả luận văn Thạc sỹ và luận án Tiến sỹ. Khi về nước, nhận thấy khoảng cách khá lớn giữa điều kiện nghiên cứu cũng như những khó khăn nhất định trong việc tìm hướng nghiên cứu, nguồn tài trợ nghiên cứu, tôi quyết định quay trở lại Pháp thực tập sau Tiến sỹ vào năm 2001. Dù khi đó có nhiều cơ hội làm việc tại Viện nghiên cứu ở nước ngoài nhưng tôi đã lựa chọn trở về cống hiến cho quê hương, đất nước. Và từ đó, tôi gắn bó với Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc, hóa dầu - một trong số các Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, được thành lập và xây dựng năm 2003 và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2008. Từ một nhóm nghiên cứu với 5 thành viên, đến nay, chúng tôi đã hình thành và xây dựng được nhóm nghiên cứu chuyên sâu gồm 60 thành viên, trong đó có 40 thành viên là cán bộ làm việc thường xuyên. Trong suốt chặng đường gần 20 năm qua, tôi không ngừng truyền thụ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm, và hơn tất cả là thắp sáng ngọn lửa đam mê NCKH cho các học trò, các cán bộ trẻ tại KEYLAB PRT. Để đến nay, chúng tôi đã có được một tập thể cán bộ KH & CN mạnh, đủ năng lực giải quyết các nhiệm vụ KH & CN quốc gia ở trình độ quốc tế và KEYLAB PRT đã trở thành Phòng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế, có trang thiết bị đồng bộ và hiện đại phục vụ cho nghiên cứu cơ bản có định hướng ứng dụng, nghiên cứu triển khai công nghệ, nghiên cứu ứng dụng công nghệ. Cá nhân tôi đã chủ trì thực hiện thành công nhiều cụm công trình nghiên cứu KHCN cấp quốc gia và trực tiếp tham gia với vai trò chủ trì phát triển công nghệ cho nhiều nhiệm vụ KHCN khác. Các kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ nêu trên đều được ứng dụng thành công vào thực tiễn. Đồng thời, với 25 Bằng độc quyền Sở hữu trí tuệ, đã được cấp bởi các tổ chức quốc tế và trong nước, như Cơ quan sở hữu trí tuệ Hoa Kỳ, Cơ quan Sở hữu trí tuệ Châu Âu và Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam, cùng hàng chục Đơn đăng ký bảo hộ độc quyền sở hữu trí tuệ đã được nộp ở Việt Nam và Mỹ; trên 30 công trình khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế được xếp hạng cùng hàng trăm công trình đã được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín trong nước; gần 20 Tiến sĩ và nghiên cứu sinh được đào tạo, những kết quả trong thực hiện các nhiệm vụ KHCN nêu trên còn góp phần nâng cao vai trò, vị thế của tổ chức KHCN và sự phát triển của lĩnh vực chuyên ngành, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

GS.TS Vũ Thị Thu Hà
PV: Được biết, KEYLAB PRT là một trong số các đơn vị được Ngân hàng Thế giới và Bộ KH&CN hỗ trợ thông qua việc thực hiện Dự án FIRST. Chị có thể chia sẻ về những kết quả cũng như yếu tố đổi mới sáng tạo của tiểu dự án?
GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Là một trong số ít tổ chức KHCN trúng tuyển gói tài trợ của Ngân hàng Thế giới và Bộ KH&CN thông qua việc thực hiện Dự án FIRST, thuộc Tiểu Hợp phần 2a, KEYLAB PRT đã nỗ lực thực hiện Tiểu dự án và đã thu được các kết quả được đánh giá là xuất sắc. Cụ thể, về KHCN, chúng tôi đã nghiên cứu, phát triển và xác lập được 9 cụm qui trình công nghệ với tổng cộng 20 qui trình; 13 mẫu sản phẩm và nhiều sản phẩm mở rộng khác, thuộc các hướng nghiên cứu về công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể trong sản xuất dung môi sinh học (DMSH); chế tạo và ứng dụng vật liệu nano trong sản xuất pin nhiên liệu sử dụng ethanol trực tiếp (pin DEFC); các công nghệ mở rộng khác liên quan đến xúc tác dị thể và quá trình lọc dầu sinh học. Về tăng cường cơ sở vật chất, đến nay KEYLAB PRT đã đầu tư mua mới 62 đầu thiết bị để tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế, phục vụ cho nghiên cứu, triển khai công nghệ và sản xuất sản phẩm của Tiểu dự án; đồng thời đã nâng cấp, duy tu trang thiết bị sẵn có của KEYLAB PRT để không những đáp ứng nhu cầu triển khai sản xuất thử nghiệm trong quá trình thực hiện Tiểu dự án mà còn đáp ứng nhu cầu mở rộng sản phẩm của Tiểu dự án trong lĩnh vực vật liệu mới; Đã mở rộng công nhận phòng Vilas. Về tăng cường năng lực nghiên cứu thông qua các khóa đào tạo và hợp tác nghiên cứu với các đối tác nghiên cứu ở trong nước và ở nước ngoài, chúng tôi đã tham gia đào tạo 10 Tiến sỹ và 07 Thạc sỹ; Gửi đi đào tạo chuyên sâu 3 lượt người tại Hàn Quốc và 2 lượt người tại Pháp; Tổ chức lớp học chuyên đề do 6 chuyên gia người Pháp giảng dạy với 48 học viên có trình độ từ Thạc sĩ; Công bố 14 bài báo trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế có uy tín; 17 bài báo trên các tạp chí chuyên ngành trong nước có uy tín; Tham gia 06 báo cáo tại hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế; Đăng ký 13 Sáng chế/Giải pháp hữu ích (trong đó có 02 Sáng chế và 02 Giải pháp hữu ích đã được cấp Bằng độc quyền). Trên 20% số Sở hữu trí tuệ nêu trên đã được đăng ký bảo hộ tại Cơ quan Bằng sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ. Về thương mại hóa, chuyển giao kết quả nghiên cứu và đảm bảo tính tự chủ, nhờ sự tài trợ của Tiểu Dự án FIRST, các hoạt động ứng dụng KHCN và thương mại hóa sản phẩm/công nghệ tại KEYLAB PRT đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Đặc biệt, dòng sản phẩm mở rộng của Tiểu dự án FIRST, được phát triển trên cơ sở nền tảng, bí quyết công nghệ (know-how) của chính các công nghệ/sản phẩm của Tiểu dự án có những đóng góp lớn trong việc mang lại doanh thu cho các hoạt động của KEYLAB PRT, tạo ra một “ngân hàng” công nghệ/sản phẩm mà KEYLAB PRT có thể đưa vào khai thác trong thời gian tới.
Qua những kết quả nêu trên, có thể nói, yếu tố đổi mới sáng tạo có mặt trong suốt quá trình thực hiện Tiểu dự án và thể hiện trong mọi kết quả đạt được. Thực tế, KEYLAB PRT đã áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp và mới so với thế giới để thực hiện hai nhiệm vụ KHCN trong Tiểu dự án, gồm ươm tạo công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể trong sản xuất DMSH và phát triển công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu nano trong sản xuất pin nhiên liệu DEFC. Nhờ vậy, các kết quả đạt được liên quan đến hai cụm công nghệ này đã có đủ tính mới và trình độ sáng tạo để có thể đăng ký bảo hộ độc quyền ở Việt Nam và trên thế giới, công bố các công trình khoa học trên tạp chí chuyên ngành có uy tín trên thế giới. Phương pháp tiếp cận với thực tiễn, thông qua việc tìm kiếm và phát triển mối quan hệ liên kết với doanh nghiệp để phát triển công nghệ, sản xuất sản phẩm và thương mại hóa sản phẩm là phương pháp phù hợp, có sự sáng tạo ngay trong quá trình thực hiện Tiểu dự án, đã mang lại hiệu quả to lớn trong hoạt động thương mại hóa công nghệ/sản phẩm của Tiểu dự án.

GS.TS Vũ Thị Thu Hà làm việc với Tập đoàn Kumho Petro Chemical và các doanh nghiệp Hàn Quốc về hợp tác chuyển giao công nghệ.
PV: Các sản phẩm của tiểu dự án đến nay đã được thương mại hóa và đem lại lợi ích, giá trị cho đơn vị và trong đời sống xã hội như thế nào, thưa Chị ?
GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Sự hỗ trợ của Tiểu dự án FIRST đã giúp KEYLAB PRT hoàn thiện rất nhiều công nghệ và sản phẩm, đã được “thai nghén” và nghiên cứu triển khai trong gần 20 năm qua, kể từ khi thành lập. Có không dưới 10 dòng sản phẩm đã được thương mại hóa trên thị trường, nhiều công nghệ đã được chính KEYLAB PRT áp dụng trên thực tiễn, đồng thời KEYLAB PRT có đủ năng lực để triển khai ít nhất 3 dự án đầu tư ở qui mô công nghiệp, theo hình thức “chìa khóa trao tay”. Hiện tại, chúng tôi đã có kế hoạch hợp tác với một số doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư các tổ hợp công nghệ nhằm khai thác chuỗi giá trị sản phẩm tại một số địa phương.
Các hoạt động thương mại hóa sản phẩm và công nghệ, hoạt động dịch vụ, tư vấn, giúp đảm bảo được 100% nhu cầu kinh phí hoạt động cho KEYLAB PRT, ngay từ năm 2019, đồng thời dự kiến đảm bảo 100% kinh phí đầu tư, không phải phụ thuộc vào đầu tư của Nhà nước, từ năm 2022. Các công nghệ đã hoàn thiện trong Tiểu dự án đều đã được đăng ký bảo hộ độc quyền nên việc ứng dụng công nghệ ở quy mô công nghiệp là thuận lợi về mặt pháp lý. KEYLAB PRT sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp trong suốt vòng đời công nghệ/sản phẩm. Nhờ đó, công nghệ luôn được hoàn thiện, nâng cấp về trình độ, quá trình sản suất sản phẩm liên tục được nâng cao về năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nhờ đó tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đặc biệt, các công nghệ/sản phẩm được phát triển trong Tiểu dự án đều thân thiện với môi trường thể hiện ở các điểm, như không phát sinh phế thải thứ cấp nhờ tận thu và chế biến sâu mọi phế phụ phẩm thành các sản phẩm có giá trị, các thiết bị công nghệ đều được tích hợp với hệ thống công nghệ xử lý môi trường hiện đại, hiệu quả. Nguyên liệu sử dụng hầu hết có nguồn gốc tái tạo, không cạnh tranh với lương thực, thực phẩm. Đặc biệt, có một dòng sản phẩm tiên tiến đang được triển khai áp dụng ở qui mô công nghiệp, mang lại lợi nhuận ròng cho doanh nghiệp ứng dụng hàng trăm đến hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, trong khi không hề tốn kinh phí đầu tư, không tốn thời gian, công sức để cải hoán công nghệ hiện hành của doanh nghiệp. Khi sản phẩm được ứng dụng đại trà ở qui mô toàn quốc sẽ mang lại hiệu quả nhiều trăm nghìn tỷ đồng mỗi năm. Kèm theo đó, các quá trình phát triển này không những không ảnh hưởng đến môi trường mà còn góp phần giảm thiểu đáng kể ô nhiễm môi trường. Việc ứng dụng của sản phẩm như vậy còn góp phần thực hiện thành công chương trình phát triển năng lượng sạch, sử dụng hiệu quả năng lượng, chương trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa của Đảng và Chính phủ, từng bước tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hiện tại, một số quĩ đầu tư quốc tế đã lên kế hoạch đầu tư cho chúng tôi phát triển sản phẩm, với tổng kinh phí đầu tư đến 100 triệu USD.
Từ những kết quả thu được trong quá trình thực hiện Tiểu Dự án FIRST thuộc Tiểu Hợp phần 2a, với nội dung “tài trợ cho các Tổ chức KHCN công lập về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo”, tôi nhận thấy việc triển khai thí điểm chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực tự chủ của các tổ chức KH&CN của Dự án FIRST là hoàn toàn đúng đắn, đã đạt được kết quả kỳ vọng và hiệu quả thu được có sức lan tỏa trong cộng đồng !
PV: Xin trân trọng cám ơn Chị vì cuộc trò chuyện vô cùng ý nghĩa !




