Kinh tế di sản đề cập đến việc quản lý, sử dụng, khai thác và bảo tồn các giá trị di sản văn hóa, thiên nhiên để tạo ra giá trị kinh tế, trong đó bao gồm việc phát triển các hoạt động kinh tế xung quanh di sản như du lịch, dịch vụ, trải nghiệm, nghệ thuật, giáo dục... nhằm tác động tích cực đến cộng đồng và nền kinh tế. Đây là lĩnh vực kết hợp giữa bảo tồn di sản và phát triển kinh tế bền vững, nhấn mạnh đến việc bảo tồn giá trị của di sản đồng thời biến di sản thành nguồn lực kinh tế, phục vụ cộng đồng địa phương và xã hội. Kinh tế di sản một mặt gia tăng giá trị tài chính từ di sản, đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy giá trị di sản.

Ảnh minh họa - TL
Theo Luật di sản văn hóa (2024) của Việt Nam, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể, di sản văn hóa vật thể được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa phi vật thể là tri thức, kỹ năng, tập quán, biểu đạt văn hóa cùng đồ vật, đồ tạo tác, không gian liên quan được cộng đồng, nhóm người, cá nhân thực hành, trao truyền qua nhiều thế hệ và hình thành nên bản sắc văn hóa của họ, không ngừng được trao truyền, bảo vệ, tái tạo, sáng tạo có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Làng nghề truyền thống, hoạt động làng nghề truyền thống xếp vào di sản văn hóa phi vật thể.
Làng nghề truyền thống là cộng đồng dân cư gắn bó lâu đời với một hoặc nhiều nghề thủ công, kết tinh tri thức dân gian và bản sắc văn hóa địa phương. Đây là hình thức sản xuất đặc trưng tại nông thôn, nơi truyền nghề qua nhiều thế hệ và tạo ra sản phẩm mang giá trị kinh tế, nghệ thuật và văn hóa. Làng nghề truyền thống vừa có hoạt động kinh tế, vừa là không gian văn hóa đặc thù, nơi hội tụ của tri thức dân gian, kỹ thuật thủ công tinh xảo, những giá trị tinh thần, tín ngưỡng liên quan đến nghề. Làng nghề tồn tại như một “bảo tàng sống” phản ánh lối sống, lịch sử phát triển, bản sắc địa phương của cộng đồng dân cư sở tại. Làng nghề truyền thống có các đặc trưng bao gồm: thứ nhất là một cộng đồng lãnh thổ, có một không gian địa lý, là nơi cư trú, hoạt động nghề; thứ hai, cộng đồng dân cư, lực lượng lao động nghề, trong đó có những nghệ nhân (lao động có kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết nghề), nghề là sinh kế của làng; thứ ba, trên cơ sở hoạt động nghề tạo nên một cộng đồng văn hóa đặc trưng. Tất cả đan xen, hòa quyện tạo thành một chỉnh thể thống nhất, hoàn chỉnh và sống động của làng nghề truyền thống.
Theo Nghị định 52/2018/NĐ-CP, nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt cả 03 tiêu chí sau: Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm và hiện đang tiếp tục phát triển tính đến thời điểm đề nghị công nhận; nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc; nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. Làng nghề được công nhận phải đạt cả 03 tiêu chí sau: Có tối thiểu 20% tổng số hộ trên địa bàn tham gia một trong các hoạt động hoặc các hoạt động ngành nghề nông thôn; hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm liên tục tính đến thời điểm đề nghị công nhận; đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường làng nghề theo quy định của pháp luật hiện hành. Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên (trước đây là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cả nước có trên 1.800 làng được công nhận là làng nghề truyền thống. Các làng nghề phân bố rộng khắp từ đồng bằng Bắc Bộ, miền Trung đến đồng bằng sông Cửu Long, gắn với lịch sử phát triển kinh tế - văn hóa lâu đời của từng làng, từng vùng và quốc gia. Làng nghề truyền thống là tài nguyên, là nguồn lực to lớn cho sự phát triển kinh tế của địa phương và của quốc gia. Việt Nam có tiềm năng lớn về làng nghề truyền thống, sản phẩm làng nghề làng nghề truyền thống, đây là nguồn tài nguyên chưa được khai thác đúng với tiềm năng. Nguồn tài nguyên của làng nghề truyền thống đa dạng, gồm: sản phẩm, các đặc trưng sản phẩm; kỹ thuật và kỹ năng nghề độc đáo; kinh nghiệm, bí quyết nghề; lịch sử, truyền thuyết về nghề, làng nghề; hoạt động lao động của làng nghề; phong tục tập quán, lễ hội làng nghề.... Từng yếu tố của làng nghề truyền thống là nguồn vốn, tài nguyên, là động lực cho sự phát triển bền vững làng nghề, phát triển kinh tế địa phương, quốc gia. Trong từng khâu, từng hành vi của tất cả các bên liên quan đến di sản làng nghề truyền thống luôn hòa quyện, không thể tách rời giữa giá trị văn hóa và giá trị kinh tế. Các làng nghề là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại và là nấc thang phát triển quan trọng trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Làng nghề truyền thống đã góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động.
Đầu tiên, cơ bản phải đề cập đến kinh tế di sản làng nghề truyền thống trong hoạt động sản xuất. Làng nghề truyền thống tạo việc làm cho hàng triệu lao động, tận dụng nguồn lực lao động địa phương, thu hút lao động từ các địa phương khác đến làm việc, giúp phân bố lại lao động, dân cư. Nghề truyền thống, đặc biệt nghề thủ công còn có lợi thế có thể sử dụng lao động khuyết tật, lao động cao tuổi, lao động vị thành niên, lao động nông nhàn. Làng nghề truyền thống tạo thu nhập cho người lao động. Một phần sản phẩm của làng nghè truyền thống được xuất khẩu, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương, quốc gia. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên, làng nghề truyền thống tạo việc làm cho khoảng 3,69 triệu lao động, trong đó: lao động thường xuyên là 2,73 triệu và lao động thời vụ là 0,96 triệu; thu nhập bình quân đầu người khoảng 5 triệu đồng/người/tháng; xuất khẩu các sản phẩm và nguyên liệu đạt khoảng 3,3 tỷ USD (trong đó: xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ là 1,08 tỷ USD; gỗ mỹ nghệ 0,03 tỷ USD, sản phẩm gốm sứ 0,71 tỷ USD...).
Kinh tế di sản làng nghề truyền thống trong du lịch trải nghiệm, mua sắm. Hoạt động du lịch trải nghiệm làng nghề truyền thống Việt Nam là một sản phẩm độc đáo, thu hút khách của nhiều công ty lữ hành trong nước và quốc tế. Nhiều làng nghề truyền thống đã trở thành điểm đến du lịch văn hóa, kết hợp trải nghiệm sản xuất, thưởng thức và mua sắm các sản phẩm làng nghề truyền thống. Hoạt động du lịch trải nghiệm kết hợp mua sắm sản phẩm làng nghề truyền thống một mặt góp phần bảo tồn nghề, thúc đẩy sản xuất làng nghề truyền thống, mặt khác giúp khách du lịch trong nước hiểu biết về sự đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc, giúp khách du lịch quốc tế hiểu sâu hơn về văn hóa Việt Nam, quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2023, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 12,6 triệu lượt người; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 673,5 nghìn tỷ đồng; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 37,8 nghìn tỷ đồng. Sự gắn kết giữa các hoạt động văn hóa, du lịch cộng đồng và thương mại, dịch vụ có tác dụng từng bước thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống tại các địa phương.
Hiện nay, làng nghề truyền thống đang gặp nhiều khó khăn và thách thức. Làng nghề truyền thống thiếu nhân lực kế thừa, nhiều làng nghề đứng trước nguy cơ mai một vì giới trẻ rời bỏ nghề, không còn mặn mà với lao động thủ công, sự mất đi và thiếu vắng những nghệ nhân nghề truyền thống, đã và đang mất đi kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết nghề độc đáo. Tình trạng ô nhiễm môi trường trong làng nghề truyền thống đang diễn ra do phần lớn làng nghề truyền thống sử dụng kỹ thuật, công nghệ lạc hậu trong sản xuất. Tình trạng ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất và chất thải rất nghiêm trọng. Một số làng nghề không có hệ thống xử lý chất thải phù hợp, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các làng nghề thiếu vốn và công nghệ. Đa số cơ sở sản xuất trong làng nghề truyền thống quy mô hộ gia đình, xưởng sản xuất thủ công, thiếu vốn, thiếu máy móc, trang thiết bị hiện đại. Thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề nhỏ và bấp bênh, sản phẩm làng nghề truyền thống luôn có giới hạn về số lượng khách hàng và phần lớn không phải sản phẩm thiết yếu. Nhiều sản phẩm làng nghề truyền thống chỉ thỏa mãn khả năng, sở thích, văn hóa của một nhóm nhỏ khách hàng. Năng lực sản xuất của làng nghề truyền thống bị giới hạn bởi nhiều yếu tố như truyền thống, văn hóa, bản sắc dẫn đến khó và không thể sản xuất công nghiệp, đại công nghiệp.
Phát triển kinh tế di sản làng nghề truyền thống là một bài toán phức tạp, khó, đòi hỏi sự kết hợp một cách hài hòa giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa giá trị văn hóa và hiệu quả kinh tế. Phát triển kinh tế di sản làng nghề truyền thống là trách nhiệm của tất cả các bên liên quan như người làm nghề, nghệ nhân, doanh nghiệp, nhà nước và toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, làng nghề truyền thống có thể khẳng định vị trí và đóng góp cho sự phát triển bền vững của địa phương, của quốc gia khi kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật truyền thống với công nghệ hiện đại, giữa sản xuất với du lịch, giữa giá trị văn hóa và giá trị kinh tế.
Để phát triển kinh tế di sản làng nghề đòi hỏi một hệ thống giải pháp. Trước hết là thay đổi trong nhận thức về làng nghề truyền thống, đó là bảo tồn không có nghĩa là "đóng băng" các làng nghề trong quá khứ mà cần tạo điều kiện để các làng nghề "sống" và phát triển trong bối cảnh mới.
Việc đào tạo và truyền nghề cho thế hệ trẻ, nguồn nhân lực duy trì và phát triển nghề truyền thống cần được chú trọng. Đào tạo và truyền nghề để hình thành tình yêu, sự đam mê nghề truyền thống, khơi dậy niềm tự hào về di sản văn hóa làng nghề truyền thống, đó là những yếu tố tạo nên sức sống bền bỉ của làng nghề truyền thống, giúp các làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển. Tình yêu, sự đam mê, niềm tự hào với di sản văn hóa làng nghề truyền thống sẽ tiếp tục là động lực để các làng nghề vượt qua thách thức, tìm ra hướng đi mới trong thời đại ngày nay. Việc truyền nghề phải vượt qua tư tưởng gia truyền (kinh nghiệm, bí quyết nghề cha truyền con nối, không để truyền ra ngoài gia đình, dòng họ), tính địa phương cục bộ (kinh nghiệm, bí quyết nghề chỉ người làng biết, không truyền ra ngoài) và tránh tình trạng thất truyền và mai một nghề truyền thống, giảm và mất tính sáng tạo, phát triển nghề truyền thống. Các trường đại học, cao đẳng nghề cũng cần có những chương trình đào tạo kết hợp giữa kiến thứ, kỹ năng về nghề truyền thống, sản phẩm nghề truyền thống với kiến thức quản lý, marketing hiện đại để tạo ra thế hệ nghệ nhân mới, vừa giỏi nghề vừa có khả năng kinh doanh.
Các làng nghề cần chủ động đổi mới, sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh, vừa giữ gìn những kỹ năng, kỹ thuật và giá trị truyền thống, vừa cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm để đáp ứng thị hiếu thị trường. Một số làng nghề đã thành công trong việc tạo ra những sản phẩm mới dựa trên kỹ thuật truyền thống, sản phầm đáp ứng đa dạng nhu cầu thị trường hiện nay, thỏa mãn nhu cầu có tính truyền thống hay hiện đại, trong nước hay quốc tế.
Các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu sản phẩm làng nghề truyền thống, doanh nghiệp du lịch có sản phẩm du lịch làng nghề truyền thống cần quan tâm khai thác một cách hiệu quả giá trị kinh tế của di sản văn hóa làng nghề truyền thống. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, các làng nghề truyền thống là một lợi thế cạnh tranh độc đáo của Việt Nam. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm bản sắc văn hóa Việt trở thành "đặc sản" thu hút khách du lịch quốc tế, những hàng hóa xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế. Để đem lại giá trị kinh tế và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp phải có chiến lược xây dựng thương hiệu và quảng bá hiệu quả cho các sản phẩm làng nghề trên thị trường quốc tế, chú trọng xây dựng thương hiệu và phát triển các sản phẩm OCOP (One Commune One Product - Mỗi xã một sản phẩm).
Làng nghề truyền thống là di sản sống của dân tộc, phản ánh sự khéo léo, sáng tạo và tinh thần lao động không ngừng của người Việt qua bao thế hệ. Việc bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ là gìn giữ giá trị văn hóa mà còn là chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn bền vững, nâng cao thu nhập và khẳng định thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế. Với sự vào cuộc đồng bộ của nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, làng nghề truyền thống hoàn toàn có thể trở thành động lực phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập và chuyển đổi số. Phát triển kinh tế di sản nhằm bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề, gìn giữ và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của làng nghề Việt Nam, thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm làng nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, bảo vệ cảnh quan, không gian và môi trường, xây dựng các khu dân cư, làng văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn bền vững.
Nguyễn Đắc Dũng, Trần Lê Thanh, Nguyễn Thị Thanh Hòa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật di dản văn hóa (2024), Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
https://vanban.chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=212473&classid=1&typegroupid=3
2. Nghị định 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn.
3. Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 07/7/2022 của Thủ tướng chính phủ Phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề nông thôn giai đoạn 2021-2030.
4. Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn.
5. Thông tư 05/2022/TT-BNNPTNT ngày 25/7/2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn một số nội dung thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.