Học thuyết về chuyên chính vô sản của C.Mác được V.I. Lênin phát triển trong quá trình chuẩn bị cho cách mạng vô sản và khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền. Điều đó được thể hiện trong quan điểm của Người về tòa án kiểu mới. Trước cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin đã chỉ rõ bản chất của tòa án trong nhà nước tư sản: “tòa án là của bọn quan lại với những đại biểu gật đầu của các đẳng cấp, cửa tòa đóng kín, các báo chí im hơi lặng tiếng, các nhân chứng giả: bọn chủ xưởng, bọn tuần cảnh ở xưởng, bọn cảnh sát đã đánh người, bọn lính đã bắn vào công nhân” (1). Từ kinh nghiệm của Công xã Pa-ri năm 1871 khi “các chiến sĩ công xã chỉ nghĩ đơn thuần chiếm lấy chính quyền mà không tính đến việc đập tan bộ máy bộ máy của chính quyền đó”, V.I. Lênin đã rất kiên quyết trong việc xóa bỏ tòa án bóc lột và thiết lập tòa án kiểu mới, đối lập với bản chất tòa án của nhà nước bóc lột. Đó là tòa án do nhân dân lao động lập ra: “Quần chúng cách mạng đã đi vào con đường đúng đắn sau ngày 25 tháng Mười 1917 và đã chứng minh sức sống của cách mạng bằng cách bắt đầu tổ chức các tòa án công nông riêng của họ” (2). Với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, nhà nước và pháp luật của chế độ bóc lột bị xóa bỏ hoàn toàn. Nhà nước, pháp luật và một nền tư pháp kiểu mới được hình thành. V.I. Lênin chỉ rõ “nhiệm vụ tuyệt đối của cách mạng vô sản không phải là cải cách những cơ quan xét xử...mà phải đập tan hoàn toàn, quét sạch đến tận gốc tất cả tòa án cũ và bộ máy của nó. Để thay thế tòa án cũ, cuộc cách mạng đã thiết lập tòa án mới, có tính chất nhân dân, nói đúng ra là tòa án xô-viết, xây dựng trên nguyên tắc là các giai cấp lao động, bị bóc lột, và chỉ có các giai cấp ấy thôi, tham gia quản lý nhà nước”.(3)

Lãnh tụ vô sản Lênin phát biểu trước quần chúng Nga. Ảnh: RBTH
Trong những thời khắc nguy nan của chính quyền cách mạng non trẻ, vai trò của tòa án với tính cách là công cụ của chính quyền cách mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để trấn áp thù trong, giặc ngoài, giữ kỷ cương, kỷ luật của xã hội mới. Nhưng theo V. I. Lênin, các tòa án còn có một nhiệm vụ khác quan trọng hơn, đó là bảo đảm việc thực hiện một cách chặt chẽ nhất kỷ luật tự giác của người lao động (4) và chỉ rõTòa án không chỉ là công cụ trấn áp kẻ thù của nhân dân lao động mà còn là công cụ giáo dục. Tòa án chính là một cơ quan có trách nhiệm làm cho tất cả những người nghèo khổ, không trừ một ai, đều có thể tham gia việc quản lý nhà nước, tòa án là một cơ quan chính quyền của giai cấp vô sản và của nông dân nghèo và là một công cụ để giáo dục kỷ luật”. (5)
Trên thực tế, việc thiết lập tòa án kiểu mới của nhân dân lao động những ngày đầu của chính quyền xô-viết là nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp, diễn ra trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, trong cuộc nội chiến và sự can thiệp của các nước đế quốc phương Tây âm mưu lật đổ chính quyền xô-viết công nông non trẻ. Từ quan điểm giai cấp rất rõ ràng, Nhà nước xô-viết đã tuyên bố khẳng định các nguyên tắc cơ bản của nền tư pháp kiểu mới, đó là: chế độ thẩm phán do nhân dân bầu; Hội thẩm nhân dân là những người đại diện cho nhân dân tham gia xét xử; thực hiện giám sát của nhân dân đối với hoạt động của tòa án; xét xử công khai; bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo...Những nguyên tắc này đã trở thành những nguyên tắc nền tảng của hệ thống tư pháp của Liên xô và các nước XHCN.
Vai trò của tòa án trong thúc đẩy kinh tế cũng được đề cập. V.I. Lênin từng chỉ rõ “Thực chất của chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực, cũng không phải chủ yếu là bạo lực”. (6) Với sự ra đời của chính sách kinh tế mới ở nước Nga xô-viết, vai trò của tòa án được thể hiện rõ hơn trong việc bảo đảm cho kinh tế phát triển lành mạnh, chống được tham nhũng, quan liêu. Người nhấn mạnh nhiệm vụ của các tòa án nhân dân là phải giám sát nghiêm ngặt hoạt động của các nhà công thương nghiệp tư doanh, mà không làm trở ngại chút nào cho sự hoạt động của họ. Nhưng đồng thời phải trừng phạt một cách hết sức nghiêm ngặt bất cứ một mưu toan nhỏ nào định vi phạm luật pháp. Đồng thời các tòa án cũng cần chú ý nhiều hơn nữa đến việc dùng pháp luật để trừ tệ quan liêu, giấy tờ, hiện tượng lơ là về mặt kinh tế để đạt được mục tiêu thực tiễn là giành những thắng lợi kinh tế to lớn hơn. (7)
Những luận điểm nói trên được hiện thực hóa bằng việc ngay sau 2 tuần thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, Sắc lệnh số 01 về Tòa án đã được ban hành (công bố ngày 24-11-1917 trên báo Sự Thật), xóa bỏ hoàn toàn hệ thống tòa án cũ của tư sản và địa chủ và thiết lập hệ thống tòa án xô-viết - một tòa án kiểu mới với các nguyên tắc dân chủ khác hẳn các tòa án của chế độ bóc lột. Chính quyền xô viết, đứng đầu là V. I. Lênin đã vận dụng kinh nghiệm của quần chúng trong phong trào đấu tranh cách mạng và giành chính quyền, tổ chức ra bộ máy nhà nước kiểu mới, trong đó có tòa án. Theo Sắc lệnh này, các Tòa án ở địa phương (tòa án thường) được thành lập để xét xử các vụ án hình sự có mức án từ 2 năm tù trở xuống và các tranh chấp dân sự từ 3000 rúp (tiền lúc đó). Bên cạnh đó, các Tòa án cách mạng được thành lập theo Sắc lệnh số 02 ngày 04-5-1918 để xét xử các tội phản cách mạng. Đặc điểm của việc xét xử trong những ngày đầu là cán bộ tòa án (thẩm phán, hội thẩm nhân dân) dựa trên "ý thức pháp luật cách mạng", trong lúc pháp luật mới chưa ban hành kịp. Tháng 10 năm 1920, Điều lệ về Tòa án nhân dân Cộng hòa xô-viết LB Nga đã được ban hành, giao cho Bộ Dân ủy tư pháp (Bộ Tư pháp) thực hiện giám đốc các vụ án nhằm bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật trong những ngày đầu của chính quyền xô-viết. Quyền hạn này tồn tại đến năm 1922, khi, Tòa án tối cao Cộng hòa xô - viết LB Nga được giao thẩm quyền giám đốc cao nhất việc xét xử của các tòa án trên toàn bộ lãnh thổ liên bang Nga.
Lịch sử tư pháp xô-viết cho thấy các tòa án trong những năm đầu của chính quyền xô-viết đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài với sự bao vây của 14 nước đế quốc và sự chống đối của các tầng lớp địa chủ phản cách mạng trong nước. Khi Liên bang xô-viết được thành lập năm 1922, Hiến pháp Liên xô năm 1924, 1936 và 1977 đã thiết lập một hệ thống tòa án ổn định, phát triển và cống hiến trong suốt chặng đường lịch sử phát triển của nền tư pháp xô-viết từ 1917 đến 1991.
Với việc nghiên cứu vận dụng, phát triển học thuyết Mác-Lênin về cách mạng vô sản, về nhà nước và pháp luật trong hàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới với một nền tư pháp của dân, do dân, vì dân như Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”./.
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn
Chủ tịch HĐQL Viện Chính sách, pháp luật và quản lý,
nguyên Ủy viên Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương
1 V. I. Lênin; Toàn tập, Tập 5, NXB. Chính trị quốc gia, 2005, tr. 361
2 V. I. Lênin; Toàn tập, Tập 36, NXB.Chính trị quốc gia, 2005, tr. 241
3 V. I. Lênin; Toàn tập, Tập 36, Sđd, tr. 199
4 V.I. Lênin; Toàn tập, Tập 36, Sđd, tr. 199
5 V. I. Lênin, Toàn tập, Tập 36, Tlđd, tr, 241
6 V I. Lênin; Toàn tập, Tập 38, Nxb Chính trị quốc gia, 2005, tr.463
7 V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 44, Nxb Chính trị quốc gia, 2006, tr, 413, 414




