18/12/2025 lúc 18:29 (GMT+7)
Breaking News

MICE loại hình du lịch cần được quan tâm phát triển mạnh hơn ở Việt Nam

Những thập niên gần đây, các loại hình du lịch ở Việt Nam như: Du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh, du lịch khám phá... Đã và đang phát triển khá nhanh, song du lịch MICE phát triển còn khá chầm lắng, cần có sự chỉ đạo mạnh hơn từ Chính phủ, sự vào cuộc mạnh hơn từ Bộ Văn hoá Thể thao du lịch, cấp ủy, chính quyền các cấp cũng như các cơ quan, đơn vị làm du lịch.

Để góp phần đưa MICE đến gần và phát triển nhanh hơn tại Việt Nam, chúng tôi sẽ gửi đến độc giả loạt bài về MICE. Trong khung khổ bài một này chúng tôi tập trung tiếp cận lại về khái niệm, cấu trúc của du lịch, những đặc điểm và tính ưu việt của du lịch MICE.

Ảnh minh họa - KDL FLC Sầm Sơn, Thanh Hóa. Ảnh: Thanh Khê

1. Khái niệm MICE

MICE là cụm từ viết tắt của Meeting (Hội nghị), Incentive (Khuyến thưởng), Conference (Hội thảo) và Exhibition (Triển lãm). Hiện nay, khái niệm về du lịch MICE vẫn chưa đạt được một sự đồng thuận cao. Từ các hướng tiếp cận nghiên cứu khác nhau, tên được chọn sử dụng tùy thuộc vào loại sự kiện được nghiên cứu (Rogers, 2003), một phần phụ thuộc vào vị trí địa lý. Theo World Tourism Organization (2006), công nghiệp hội nghị bao gồm các thành phần chính: (1) Hội nghị và Hội thảo (Meeting và Conference); (2) Triển lãm (Exhibition) và (3) Khuyến thưởng (Incentive). Do vậy, công nghiệp hội nghị thường gọi theo một cách khác là MICE .

2. Khái niệm du lịch MICE

Theo quy luật phát triển, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khu vực hóa, toàn cầu hóa sẽ diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên toàn thế giới dẫn đến việc trao đổi, giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa, thương mại, đầu tư ngày càng phát triển. Điều này kéo theo những hoạt động liên quan như: Tổ chức hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm, sự kiện… diễn ra ngày một nhiều, từ đó nảy sinh những dịch vụ phục vụ những hoạt động này gồm: Cơ sở lưu trú, địa điểm tổ chức hội thảo, hội chợ, triển lãm, sự kiện, ăn, uống, vui chơi, đi lại, thiết bị phục vụ phòng họp… Và khi dịch vụ này phát triển đến mức trở thành phổ biển và chuyên nghiệp thì một loại hình du lịch mới ra đời: Du lịch MICE.

Theo World Tourism Organization (2006), công nghiệp hội nghị bao gồm các thành phần chính: (1) Hội nghị và Hội thảo (Meeting và Conference); (2) Triển lãm (Exhibition) và (3) Khuyến thưởng (Incentive). Do vậy, công nghiệp hội nghị thường gọi theo một cách khác là MICE. Để MICE hoạt động tốt, cần sự đóng góp của nhiều bên tham gia như vận chuyển, khách sạn, trung tâm hội nghị, trung tâm triển lãm, các phương tiện truyền thông, hỗ trợ nghe, nhìn, ăn uống, giải trí, mua sắm... (Dwyer, Mistilis, Forsyth và Rao, 2001). Theo Rósbjörg (2010), MICE là một phần của du lịch và khách sạn, vì các bên liên quan của nó có quan tâm đến du lịch và sử dụng một số tài sản tương tự để phục vụ các sự kiện như thế này. Theo Dwyer, Deery, Jago, Spurr và Fredline (2007), MICE là một lĩnh vực bao gồm các yếu tố cung - cầu cho sự kiện, sử dụng một địa điểm trong thời gian tối thiểu là nửa ngày với mục đích là khuyến khích sự tham gia của nhiều người, tiến hành kinh doanh, chia sẻ ý tưởng, học tập hoặc hoạt động xã hội.

Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam năm 2007 cho rằng: Du lịch MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, khen thưởng và các sự kiện đặc biệt, được tổ chức trên quy mô rộng cả về không gian, lượng người tham gia. Như vậy, MICE không phải là một loại hình du lịch đơn nhất, nhỏ lẻ mà là loại hình du lịch kết hợp giữa việc tổ chức các sự kiện (hội nghị, hội thảo, khen thưởng, triển lãm) với dịch vụ du lịch (ăn uống , lưu trú, đi lại…) và/hoặc đi du lịch (tham quan, giải trí, mua sắm…) trên quy mô rộng cả về không gian và số lượng người tham dự.

Du lịch MICE là một ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều hoạt động ở những mức độ khác nhau cho nhiều người tham gia khác nhau (Mistilis và Dwyer, 2008), nghĩa là các hoạt động có liên quan đến các thành tố cung - cầu cho việc vận chuyển du khách, nơi ăn, nghỉ, cung cấp các nơi tham quan, mua sắm, giải trí.

Theo Mistilis và Dwyer (2008), du lịch MICE hay ngành công nghiệp hội nghị là một hoạt động đa dạng, gồm nhiều bên tham gia và cần sự phối hợp rất chặt chẽ giữa các bên. Do vậy, MICE là tên gọi thích hợp nhất, bao gồm một dải rộng các hoạt động hội nghị, hội thảo, triển lãm, du lịch, khuyến thưởng.

Trong một nghiên cứu của mình, các tác giả Morla và Ladkin (2007) đã sử dụng thuật ngữ “ngành công nghiệp hội nghị” khi họ nghiên cứu về nhận thức của các bên liên quan và tiềm năng tăng trưởng ở Galacia và Santiago De Composetela, Tây Ban Nha. Một nghiên cứu khác của Wei và Go (1999) đã sử dụng tên “ngành công nghiệp MICE” để thăm dò các vấn đề và chiến lược liên quan đến lĩnh vực này tại Bắc Kinh. Như đã thảo luận ở trên, cả hai thuật ngữ này có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Trong nghiên cứu của Dwyer và ctg (2007) thực hiện cho WTO của Liên Hợp Quốc, các tác giả này đề nghị MICE nên là một ngành công nghiệp hơn là một khu vực. Đây là cách tiếp cận từ vĩ mô, xem xét phát triển kinh tế cho một quốc gia. Theo quan điểm của đề tài này, để đạt được sự thống nhất như tác giả đã nêu từ đầu thì du lịch là một ngành công nghiệp và du lịch MICE là một khu vực trong ngành công nghiệp du lịch.

3. Khái niệm sự kiện

Theo Getz (2008), sự kiện là một hiện tượng xảy ra tại một không gian với thời gian nhất định. Mỗi sự kiện sẽ khác nhau vì tương tác giữa các quy trình hoạt động - con người - hệ thống quản lý là khác nhau. Cụ thể hóa về sự kiện, thường là (i) một hiện tượng xảy ra tại một nơi nhất định, ở một thời gian nhất định; (ii) một tập hợp của những điều kiện hoạt động riêng biệt; và (iii) một hệ quả trong đó một hiện tượng sau được gây ra bởi hiện tượng trước.

Sự kiện được lập kế hoạch thường được tạo dựng cho một mục đích rõ rệt và có nhiều hình thức khác nhau như:

- Lễ kỷ niệm - văn hóa

- Chính trị - nhà nước

- Nghệ thuật - giải trí

- Giáo dục - khoa học

- Giải trí

- Sự kiện riêng.

Dựa trên quan điểm của Getz (2008) “Sự kiện có hay không có lập kế hoạch là một hiện tượng của xã hội, xảy ra tại một hay nhiều địa điểm ở một hay nhiều điểm đến trong một khoảng thời gian nhất định nhằm một hay nhiều mục đích khác nhau”. Như vậy, du lịch cũng là một sự kiện, du lịch MICE là một bộ phận trong ngành công nghiệp du lịch nên thường được gọi là sự kiện.

4. Các thành phần của du lịch MICE

4.1. Hội nghị (Meeting)

Hội nghị là một thuật ngữ chỉ sự tụ họp chung với nhau của một số người tại một nơi để trao đổi hay thực hiện một hoạt động cụ thể nào đó, có thể là theo một khuôn mẫu hoặc một hình thức đặc biệt nào đó (Getz, (2008), Davidson (2007)) và nhấn mạnh rằng hội nghị có thể có mục đích thương mại hoặc phi thương mại.

Hội nghị được xem là một yếu tố quan trọng của kinh doanh, hội nghị có thể được tổ chức bởi nhiều lý do khác nhau. Về cơ bản, hội nghị là một sự kiện thường liên quan đến một số người thực thi kinh doanh hoặc là tham dự những buổi thảo luận về các vấn đề xã hội, giáo dục... Lý do quan trọng nhất của hội nghị là giải quyết vấn đề và ra kết luận. Tuy nhiên, các hội nghị có thể được sử dụng ở nghĩa rộng nhất để mô tả một hội nghị hay hội thảo theo hướng tập thể, không có hoạt động triển lãm trong hoạt động này (Fenich, 2005).

Như vậy, hội nghị là một sự kiện của một số người có liên quan với nhau tại một địa điểm nhằm mục đích trao đổi thông tin, thảo luận hoặc thực thi một giải pháp thương mại hoặc phi thương mại nào đó trong tương lai. Hội nghị là một phần của kinh doanh du lịch khi người tham gia phải sử dụng các dịch vụ du lịch khác nhau và thường được tổ chức ở một nơi khác với nơi làm việc, cư trú.

4.2. Khuyến thưởng (Incentive)

Goldblatt và McKibben (1996, trang 98) định nghĩa “Khuyến thưởng đơn giản là một chuyến du hành được doanh nghiệp trả tiền như một giải thưởng để kích thích năng suất”. Khuyến thưởng là một chuyến đi du lịch được nhà tổ chức chi trả toàn bộ (Rogers, 2003) nhằm động viên, khen thưởng người lao động (Fenich, 2005; Rogers, 2003). Khuyến thưởng có thể bao gồm nhiều yếu tố trong chuyến đi như giáo dục, hoạt động nhóm, nghiên cứu, khám phá. Họ đến những nơi thú vị, làm những việc có liên quan, tham dự một số hoạt động thể thao, hoạt động khác. Chính vì vậy làm cho chuyến đi đáng nhớ hơn.

Theo Hiệp hội điều hành du lịch khuyến thưởng (SITE): “Khuyến thưởng là một công cụ quản lý toàn cầu có sử dụng trải nghiệm du lịch đặc biệt để động viên và\hoặc công nhận những đóng góp trong công việc của người tham gia nhằm hỗ trợ đạt được mục tiêu của tổ chức”. Davidson và Cope (2003) cho rằng khuyến thưởng là cung cấp một chuyến đi du lịch hơn là cho tiền người lao động. Nghĩa là chi phí du lịch sẽ mang lại lợi ích cho tổ chức nhiều hơn bằng cách thúc đẩy nhân viên của mình làm việc đạt kết quả cao hơn trong một tâm trạng tốt. Điều này giúp tổ chức dễ đạt mục tiêu của mình hơn.

4.3. Hội thảo (Congress, Conference)

Hội thảo thường liên quan đến một cuộc họp lớn cho những người có mục đích chung, được tổ chức hằng năm. Do đó, hội thảo cần một kế hoạch chuẩn bị chu đáo với mục tiêu không chỉ trong kinh doanh mà còn là những vấn đề xã hội rộng lớn. Astroff và Abbey (1998) cho rằng hội thảo ngày nay thường liên quan đến một phiên toàn thể có hoặc không có triển lãm đi kèm. Hầu hết có chu kỳ lặp đi lặp lại, phổ biến nhất là hằng năm. Davidson và Cope (2003) có cùng một cách giải thích như Hội đồng Liên lạc Hội nghị (CLC) và Hội đồng Hợp tác Công nghiệp (JIC) và bổ sung thêm hội thảo có kết hợp cùng với triển lãm sản phẩm dịch vụ.

Đại hội (Congress) là một khái niệm tương tự hội thảo, nhưng Astroff và Abbey (1998) lưu ý đại hội thường liên quan đến những cuộc họp lớn cấp quốc gia và quốc tế. Tại châu Âu, thuật ngữ này được sử dụng để mô tả những cuộc họp quốc tế, ở Mỹ thì lại liên quan đến những cuộc họp mang tính chính trị. Tính năng đặc biệt của một đại hội là có sự tham dự của các đoàn đại biểu đại diện cho các địa phương, quốc gia hay khu vực địa lý. Hiệp hội quốc tế về Hội thảo (IMIG) định nghĩa đại hội là việc thường xuyên tụ họp của các nhóm lớn các cá nhân thảo luận về một vấn đề cụ thể. Đại hội thường kéo dài vài ngày và có nhiều phiên đồng thời. Đại hội có thể tổ chức nhiều năm\một năm một lần. Hầu hết các đại hội quốc tế, quốc gia thường được tổ chức nhiều năm một lần. Hội đồng Liên lạc Hội nghị (CLC) và Hội đồng Hợp tác Công nghiệp (JIC) định nghĩa đại hội là một cuộc họp chính thức của một cơ quan lập pháp, các nhóm xã hội, kinh tế để cung cấp thông tin về một tình hình cụ thể, để thảo luận và qua đó thiết lập sự đồng ý về chính sách giữa những người tham gia với những mục tiêu rõ ràng và với thời gian hạn chế.

Hội thảo (Conference) là một sự kiện được tổ chức bởi bất kỳ một tổ chức nào để gặp gỡ, trao đổi, truyền đi một thông điệp, mở một cuộc tranh luận hoặc cung cấp công khai thông tin đến một số khu vực về ý kiến cho một vấn đề cụ thể. Một hội thảo thường có quy mô nhỏ và có những chọn lựa những đặc điểm thuận lợi cho việc trao đổi thông tin; không có truyền thống, không có chu kỳ, có thể được tổ chức không giới hạn số lần trong năm; thời gian có giới hạn, có mục tiêu cụ thể và ít quan trọng.

Như vậy, các tác giả khác nhau nhưng đã có những định nghĩa tương tự nhưng giống nhau. Chúng tôi cùng đồng quan điểm cho rằng hội thảo là một cuộc họp có quy mô số người tham dự lớn, được lập kế hoạch chu đáo với mục tiêu là thảo luận những chính sách của tổ chức, những chiến lược kinh doanh sản phẩm hoặc dịch vụ. Nó có thể tổ chức một lần duy nhất hoặc lặp đi lặp lại hàng năm.

4.4. Triển lãm (Exhibition)

Triển lãm là một sự kiện mà doanh nghiệp trưng bày sản phẩm cho khách hàng tiềm năng, những người tham dự để mua và\hoặc để nhận những thông tin sản phẩm từ các chuyên gia về hàng hoá của nhà sản xuất về sản phẩm được trưng bày (Davidson và Cope, 2003). Astroff và Abbey (1998) cũng đồng ý rằng một triển lãm thường mô tả một sự kiện được tổ chức kết hợp với một cuộc họp khác. Các hình thức sử dụng cho triển lãm nhằm giới thiệu những sản phẩm mới, thường được nhà cung cấp tích hợp vào gói sản phẩm cung cấp cho khán giả tham dự hội thảo và nó là một phần của hội thảo. Fenich (2005) cho rằng triển lãm là một sự kiện mà tại đó hoạt động chính là người tham dự đến xem những sản phẩm mới được trưng bày. Sự kiện này tập trung chủ yếu vào định hướng kinh doanh, đặc biệt để gia tăng khách hàng mới. Triển lãm thường có mục đích thông báo cho khách hàng về những sản phẩm, dịch vụ có sẵn trong ngành công nghiệp, hay những chuyên gia với những lợi ích chuyên nghiệp.

5. Các đặc điểm của du lịch MICE

Du lịch MICE đóng góp nhiều doanh thu cho ngành du lịch và sự phát triển cho điểm đến đã được xác định bởi nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này (Dwyer và Mistilis, 1999; Dwyer, Mellor, Mistilis và Mules, 2000; Getz, 2007, 2008; McCartney, 2008; Camparinon và Arcodia, 2008). Việc chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong các lĩnh vực khoa học và những lĩnh vực khác dẫn đến sự cần thiết tổ chức các sự kiện khác nhau trên thế giới. Mục đích của những sự kiện này, tuy khác nhau về hình thức tổ chức, người tham gia, nhưng có một điểm chung là tạo điều kiện để mọi người được làm việc cùng nhau, trao đổi ý tưởng, chia sẻ thông tin, thảo luận vấn đề, xây dựng các mối quan hệ bạn hữu, kinh doanh chặt chẽ hơn, khuyến khích tổ chức, cá nhân hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Mục tiêu cuối cùng của bất kỳ sự kiện nào là để tạo ra giá trị cho các bên liên quan khác nhau của nó.

Theo Janakiraman (2012), đặc điểm của du lịch MICE bao gồm:

*Ba cao: Tiềm năng tăng trưởng cao; giá trị gia tăng cao; và lợi ích đổi mới cao.

*Ba rộng: Đầu ra rộng; cơ hội tạo việc làm rộng; và khả năng hợp tác với các ngành công nghiệp khác rộng.

*Ba thuận lợi: Thuận lợi hơn các ngành công nghiệp khác về nguồn nhân lực; bí quyết công nghệ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.

Với các đặc điểm trên, sự phát triển du lịch MICE sẽ góp phần tạo nên sự phát triển về kinh tế - xã hội, mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, du khách, cư dân địa phương.

6. Du khách MICE

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2017), du khách là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để nhận thu nhập ở nơi đến. Một số nghiên cứu cho rằng du khách MICE là người lao động của công ty hoặc người được công ty tài trợ để tham gia các hoạt động du lịch MICE ở trong và ngoài nước hoặc đã tham gia sự kiện MICE (Cook, Yale, Marqua, 2006; Swarbrooke và Horner, 2001; Chao, 2010). Nói cách khác, đó là những người đến dự các sự kiện MICE hoặc tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện chuyên môn được công ty tổ chức ngoài nơi làm việc hoặc tham dự vào các nghiên cứu về du lịch MICE. Theo đó du khách MICE là những người tham dự sự kiện MICE cả ở trong và ở ngoài nước.

Theo tổ chức Hội nghị chuyên nghiệp quốc tế (MPI), du khách MICE có thể phân thành các loại: (1) Du khách đi tìm kiến thức, đó là những người có định hướng bởi nhu cầu tăng thêm kiến thức trong ngành mình đang làm việc hoặc nghề nghiệp của mình. Đối với họ, hội nghị hàng năm được xem xét ưu tiên hàng đầu trong việc phân bổ thời gian của họ; (2) Du khách đi tìm kiếm giá trị, du khách MICE loại này chú ý nhiều đến sự so sánh giữa chi phí và lợi ích từ hội nghị mà họ nhận được khi họ tham dự. Chi phí tổng thể và vị trí hội nghị là những yếu tố quan trọng để họ xem xét có tham dự hội nghị hay không, họ có mong muốn được thực hành kiến thức mới hoặc thao tác thực tế những kỹ năng; (3) Du khách đi tìm kết nối mạng xã hội, những người này thường hay chú ý đến khả năng có thể kết nối với đồng nghiệp, với xã hội, họ thường có xu hướng kết hợp cả công việc và giải trí và chú ý đến giá trị thông tin, kiến thức thu thập được từ sự kiện; (4) Du khách chú ý đến định hướng sự tiện lợi, là những người tham gia sự kiện với nhiều lý do, họ thường bị áp lực thời gian, bởi thời gian của họ rất hạn hẹp và (5) Du khách muốn tạo thói quen, họ thường có khuynh hướng đi dự hoạt động MICE hàng năm để tạo thói quen cho mình. Như vậy, du khách MICE, là một dạng khách du lịch, nhưng động cơ du lịch có phần khác với du khách thông thường ở chỗ du khách MICE đặt mục tiêu chú trọng tìm kiếm kiến thức hoặc giá trị hoặc tạo thói quen hơn là tham quan du lịch. Đặc biệt khách của MICE thường có thời gian lưu trú nhiều hơn, chi phí cao hơn so với một số khách thuộc các loại hình du lịch khác.

7. Điểm đến MICE

Với những cách tiếp cận điểm đến khác nhau, sẽ có những quan điểm khác nhau. Theo Getz (2007), một điểm đến MICE khi có bảy yếu tố cần thiết: (i) cơ sở hạ tầng, (ii) nhà ở, (iii) vận chuyển, (iv) sự hấp dẫn, (v) phục vụ, (vi) các nhà bán lẻ, (vii) nơi và phương tiện giải trí hoặc nơi tham quan, nghiên cứu khám phá. Khi nghiên cứu điểm đến MICE của Jordan, Chiu và Ananzeh (2012) cho rằng một điểm đến MICE có thể cạnh tranh toàn cầu để đăng cai sự kiện MICE khi nó có 6A: Sự tiện nghi (Amenities); Khả năng tiếp cận (Accessibility); Có trách nhiệm giải trình (Accountability); Giá cả hợp lý (Affordable); Hấp dẫn (Attractions); và Có nhiều hoạt động (Activities).

Dựa trên những khái niệm từ những cách tiếp cận khác nhau được nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm điểm đến MICE là một vùng địa lý có những nguồn lực và lợi thế so sánh riêng, có các tính năng độc đáo tạo nên sự hấp dẫn, có cơ sở hạ tầng và dịch vụ đa dạng, chất lượng cao, được cung cấp và tích hợp từ những nguồn lực ngay bên trong và bên ngoài điểm đến nhằm cung cấp những sản phẩm du lịch MICE có chất lượng cao.

Khi so sánh điểm đến MICE với các điểm đến du lịch mà Truong và King (2009) đã nghiên cứu, một điểm đến du lịch thường bao gồm các yếu tố hấp dẫn, các hoạt động, khả năng tiếp cận, chổ ăn nghỉ và sự tiện nghi, thường được gọi là 5A. Điểm khác biệt giữa một điểm đến du lịch và điểm đến du lịch MICE chính là trách nhiệm, nói khác đi đó là việc cung cấp sản phẩm dịch vụ kịp thời, đầy đủ, có chất lượng ở mức cao hơn, hạ tầng du lịch đầy đủ hơn, nguồn nhân lực chất lượng hơn.

8. Tính ưu việt của du lịch MICE

Theo kết quả các nghiên cứu cho thấy du lịch MICE có những ưu việt bước đầu sau:

Thứ nhất, sẽ tạo sự đóng góp nhiều hơn của ngành du lịch vào GDP của quốc gia, tỷ lệ giao dịch ngoại hối tăng lên do du khách MICE từ nước ngoài đến và tiêu dùng mua sắm bằng ngoại tệ và giao dịch ngoại thương (Katsitadze và Natsvlishvili, 2017); theo thống kê MICE thường mang lại doanh thu cao hơn 6 lần so với cscs loại hình du lịch khác.

Thứ hai, quá trình phát triển sẽ thúc đẩy sự xuất hiện của những Trung tâm triển lãm, hội nghị Quốc tế ở những điểm đến MICE. Những khách sạn, resort cao cấp được đầu tư xây dựng và hoạt động (Fan, 2017; Katsitadze và Natsvlishvili, 2017);

Thứ Ba, sẽ tạo ra lượng khách trong và ngoài nước tăng đều qua các năm thông qua những lần đăng cai, tổ chức hội nghị, triển lãm khu vực, quốc gia và quốc tế;

Thư tư, sẽ thúc đẩy phát triển mạng lưới mối quan hệ giữa các bên liên quan cả bên trong và bên ngoài quốc gia để giúp cho việc tổ chức, điều hành hoạt động du lịch MICE, trao đổi và chuyển giao kết quả nghiên cứu được hiệu quả để gia tăng kinh nghiệm cho các bên liên quan (Lau, Milne và Johnston, 2005).

Thứ năm, sẽ thúc đẩy giao lưu phát triển bản sắc văn hóa giữa du khách và cư dân địa phương, là điều kiện để quảng bá văn hoá các dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn các dân tộc khác. /.

ThS. Trịnh Thị Thuyết

Giảng viên Trường Đại học Công đoàn

Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Chính trị ( 2017), NQ số 08/NQTW, ngày 16/01/2017 về phát triển Du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
  2. Tổng cục Du lịch (2020), Du lịch MICE- yêu cầu về địa điểm tổ chức MICE trong khách sạn, tiêu chuẩn Quốc gia.
  3. Nguyễn Đình Hòa (2009), Du lịch MICE loại hình du lịch đầy triển vọng, Tạp chí Du lịch Việt Nam trang 50,51.
  4. Nguyễn Hồng Diệp ( 2013), các giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch MICE tại thành phố Hồ chí minh.
  5. Lê Thái Sơn (2019, mối quan hệ giữa các nguồn lực bên ngoài, nguồn nhân lực điểm đến MICE và sự phát triển du lịch MICE, luận án TS.
...