Kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới, to lớn, đòi hỏi công tác lý luận của Đảng tiếp tục gánh vác sứ mệnh đi trước dẫn đường.

Ảnh minh họa - TL
1- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng, bổ sung và dần hoàn thiện nền tảng lý luận, định hướng công tác lý luận. Trước mỗi bước chuyển của cách mạng, Trung ương Đảng đều ban hành nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác lý luận, nổi bật là Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”. Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, Bộ Chính trị đã chỉ đạo quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng và tổ chức triển khai thực hiện với nhiều giải pháp, cách làm mới. Sau 10 năm thực hiện, Nghị quyết số 37-NQ/TW đã tạo nên chuyển biến căn bản, rõ nét về chất lượng và hiệu quả. Có thể khái quát, nhấn mạnh với hai nội dung lớn:
Thứ nhất, công tác lý luận được triển khai đồng bộ, toàn diện, thể hiện ở các mặt:
Cấp ủy quan tâm, sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết, có sự đầu tư về con người, cơ chế, tạo chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác lý luận, tạo nền tảng thúc đẩy, nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, đảng viên.
Dân chủ trong nghiên cứu và thực hành lý luận được mở rộng. Chất lượng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được nâng lên, góp phần phát triển tư duy lý luận của Đảng.
Công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến lý luận được chú trọng, đẩy mạnh, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức lý luận, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác dự báo, nắm tình hình tư tưởng, xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội được thực hiện kịp thời, kiên trì, bền bỉ, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được triển khai toàn diện, quyết liệt, nhất là việc triển khai đấu tranh trên không gian mạng. Hợp tác quốc tế về lý luận từng bước mở rộng, tạo chuyển biến tích cực. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận được quan tâm cả về quy mô, số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, đạt được những thành tựu lý luận nổi bật, góp phần bổ sung, hoàn thiện cơ bản hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ mới: Tiếp tục định hình mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với các cấu thành: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và hỗ trợ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Ba trụ cột của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đột phá, tạo động lực then chốt trong phát triển đất nước. Xác định và hình thành phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Góp phần nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn phản ánh những vấn đề mang tính quy luật biện chứng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Hoàn thiện một bước lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bao gồm xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Tiếp tục hoàn thiện lý luận về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm lý luận về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước; về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm công khai, minh bạch và tăng cường kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế và kỷ cương xã hội.
Phát triển lý luận về văn hóa và con người Việt Nam với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn với phát triển kinh tế, chính trị và xã hội, được coi là yếu tố then chốt để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Góp phần phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhấn mạnh chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, dựa vào sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Xác định rõ về đối tượng, đối tác trong quan hệ quốc tế, linh hoạt trong hợp tác và đấu tranh, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
Góp phần phát triển một số vấn đề lý luận trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện hai mục tiêu “100 năm” của đất nước (sau đây gọi là hai mục tiêu “100 năm”)(1): Lý luận về xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển bền vững đất nước; đột phá, xóa bỏ điểm nghẽn, rào cản, phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, động lực và nguồn lực để tăng tốc, bứt phá xây dựng và phát triển đất nước (từ thể chế chính trị vững mạnh, toàn diện; đến thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ; thể chế quản lý phát triển xã hội hiện đại, bao trùm; thể chế chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc). Lý luận về đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia làm động lực chủ yếu. Lý luận về kiến tạo kỷ nguyên phát triển mới, lộ trình, bước đi, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với cuộc cách mạng số, kỷ nguyên số; hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Lý luận về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; tổ chức bộ máy tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Bên cạnh kết quả nổi bật, công tác lý luận thời gian qua vẫn còn hạn chế, bất cập. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa xứng tầm nhiệm vụ, chưa theo kịp tình hình diễn biến nhanh, phức tạp của thế giới và quá trình đổi mới đất nước. Một số vấn đề mới, khó, phức tạp chậm được làm sáng tỏ. Tính phát hiện, sáng tạo, chất lượng dự báo chưa cao.
Nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chậm đổi mới so với đòi hỏi của thực tiễn. Phương thức tuyên truyền lý luận chưa đa dạng, hấp dẫn, nhất là trong ứng dụng nền tảng công nghệ, số hóa. Công tác nắm bắt, định hướng dư luận trước sự kiện, tình huống bất ngờ còn thiếu chủ động. Phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận hiệu quả chưa cao. Đấu tranh phản bác, ngăn chặn thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, chưa thực sự sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Sự phối hợp, xử lý thông tin giữa các cơ quan trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chưa hiệu quả, nhất là trong điều kiện phát triển thông tin toàn cầu.
Tổ chức quản lý hoạt động lý luận còn thiếu gắn kết giữa cán bộ lý luận với cán bộ chỉ đạo thực tiễn, giữa nghiên cứu và giảng dạy lý luận. Đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, thiếu thống nhất trong điều phối. Chất lượng đội ngũ cán bộ lý luận chưa đồng đều, còn ít chuyên gia đầu ngành, hẫng hụt trong đội ngũ kế cận. Cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa xứng đáng để thu hút, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận có trình độ cao, năng lực nổi trội, nhất là lực lượng trẻ. Mở rộng hợp tác, trao đổi lý luận với các đảng tham chính, đảng cầm quyền ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển, đối tác chiến lược chưa chủ động.
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên do một số lãnh đạo cấp ủy, chính quyền chưa xác định đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác lý luận, chưa thực sự coi đây là nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng; thiếu chính sách đồng bộ về quản lý, nghiên cứu khoa học lý luận, nhất là về liên kết, huy động, xã hội hóa nguồn lực. Chưa đầu tư thích đáng cho cơ sở kỹ thuật, công nghệ, nhất là cơ sở dữ liệu lớn, số hóa. Chưa thật sự đầu tư đúng tầm việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lý luận. Thiếu cơ chế tạo động lực, chính sách đủ mạnh trong thu hút, xây dựng đội ngũ, nhất là cán bộ trẻ có năng lực nổi trội, có chiều hướng phát triển...
2- Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, đất nước ta hội đủ điều kiện, tiềm lực và tâm thế để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng. Tuy nhiên, bên cạnh chiều hướng phát triển, thời gian tới, đất nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và nguy cơ tiềm ẩn, đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác lý luận của Đảng trong phát huy vai trò vượt trước, dẫn đường trong tình hình mới. Trước yêu cầu phát triển, với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, công tác lý luận cần có sự điều chỉnh quan điểm định hướng nghiên cứu, tăng cường vai trò, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả như định hướng của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm: “Đảng phải không ngừng hoàn thiện lý luận, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tạo nền tảng vững chắc để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh và bền vững”(2). Không để kéo dài tình trạng lạc hậu của lý luận so với sự vận động của thực tiễn. Lý luận phải đồng hành với thực tiễn, có tầm nhìn vượt trước; cung cấp luận cứ khoa học, bằng chứng thực tiễn về hạn chế, yếu kém; nhận diện rõ nguyên nhân căn cốt của điểm nghẽn, nút thắt đang kìm hãm sự phát triển của đất nước, từ đó đề xuất giải pháp đột phá, tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình phát triển đất nước, chỉ rõ đâu là cơ hội lớn cần tận dụng, đâu là thách thức lớn cần vượt qua, yếu tố mới của thực tiễn cần bổ sung.
Trên cơ sở kế thừa thành tựu lý luận đã tích lũy, mạnh dạn tiếp thu tư duy mới, tạo đột phá về lý luận; về lộ trình và bước đi; về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với cuộc cách mạng số, kỷ nguyên số; về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc trong kỷ nguyên phát triển mới. Từ đó, tạo đột phá trong định hướng phát triển các lĩnh vực quan trọng của đất nước, nhất là phát triển đột phá về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút, phát huy nhân tài; về phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam; về quản trị quốc gia; về hiện đại hóa quốc phòng, an ninh, nâng tầm đối ngoại, ngoại giao... Việc hoàn thiện nền tảng lý luận là yêu cầu cấp thiết để Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước trong bối cảnh thế giới đang biến chuyển sâu sắc, toàn diện các lĩnh vực, tạo nên một cuộc cách mạng mới bằng việc thống nhất nhận thức, quyết tâm đổi mới tư duy, quyết liệt thực hiện của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Muốn vậy, cần tập trung thực hiện các giải pháp căn bản sau đây:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức sâu sắc, toàn diện về công tác lý luận của Đảng từ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận gắn với hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến công tác giáo dục, tuyên truyền lý luận chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận; phát triển đội ngũ và xây dựng tổ chức bộ máy làm công tác lý luận. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, sát sao tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận theo các hướng:
- Tiếp tục nghiên cứu, khẳng định tính đúng đắn, giá trị khoa học bền vững của thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xác định rõ quan điểm nền tảng, bất biến, quan điểm cần bổ sung, phát triển, phù hợp với điều kiện cụ thể mới của đất nước và thay đổi mang tính thời đại.
Đi sâu nghiên cứu trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu giá trị tiến bộ, xu thế phát triển của thế giới đương đại. Nghiên cứu kỹ lưỡng bản chất, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, bản chất, đặc điểm mới của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Tập trung nghiên cứu, bổ sung, phát triển và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đường lối phát triển đất nước trong giai đoạn mới, cụ thể:
Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, làm rõ hơn về nội hàm, nội dung, phương thức gắn bó giữa hai nhiệm vụ trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng với nhiều tầng nấc, đa cực, có tính chất biến động vô cùng phức tạp.
Tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; 20 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011; 100 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Về chủ nghĩa xã hội, mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, tiếp tục đi sâu nghiên cứu hệ thống quan điểm về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam; các mối quan hệ lớn; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế tri thức; hội nhập quốc tế; phát triển kinh tế nhanh và bền vững gắn với bảo vệ môi trường; giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội...
Cụ thể hóa, bổ sung, phát triển mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xác định rõ hơn các đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển; giá trị cốt lõi của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về các mối quan hệ lớn, đâu là mối quan hệ ổn định, đâu là mối quan hệ cần điều chỉnh, bổ sung, phát triển, đâu là mối quan hệ cần ưu tiên, chú trọng hơn. Làm rõ đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điều kiện, đặc thù của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong từng giai đoạn.
Nội dung cơ bản của lý luận về đường lối phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: Làm rõ nội hàm khái niệm, quan điểm định hướng, yếu tố cấu thành, tầm nhìn, mục tiêu, mô hình, phương thức phát triển; khái niệm trụ cột và việc khẳng định các trụ cột; các nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu cần thực hiện trong từng giai đoạn phát triển; các điều kiện cần và đủ để thực hiện mục tiêu hoàn thiện lý luận về đường lối phát triển đất nước.
Làm rõ nội hàm khái niệm, cơ sở lý luận để xây dựng thể chế phát triển nhanh, bền vững, bảo đảm tính biện chứng, tính vượt trước, tính định hướng, tính dẫn đường của thể chế chính trị trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước, bảo đảm định hướng quản lý phát triển xã hội hiện đại, bao trùm và bền vững.
- Tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận, cụ thể là:
Về kinh tế, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm rõ các đặc trưng về nền kinh tế nhiều thành phần và nội hàm quan điểm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ; kinh tế tư nhân ngày càng thể hiện là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Nội hàm, điều kiện và phương thức xây dựng lực lượng sản xuất mới, trong đó khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, động lực chủ yếu; chỉ ra thể chế đột phá nhằm làm thay đổi căn bản, vượt trội năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia.
Về văn hóa, nhận thức, làm rõ thêm vai trò, chức năng xã hội của văn hóa trong xây dựng, phát triển toàn diện nền văn hóa, con người Việt Nam; vấn đề chấn hưng đạo đức xã hội, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị và chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới, xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; lấy phát triển văn hóa là sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước. Xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, Chương trình, mục tiêu tổng thể chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đến năm 2045.
Về khoa học, công nghệ, nghiên cứu, chỉ rõ các điểm nghẽn, nút thắt cản trở sự phát triển, tiếp tục khẳng định nhận thức đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chìa khóa, động lực chủ yếu để phát triển lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất, tạo ra bước phát triển vượt bậc mang tính cách mạng.
Về giáo dục - đào tạo, tiếp tục làm rõ hơn quan điểm giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, với phương châm giáo dục gắn liền với lợi ích đời sống xã hội, tập trung vào việc tạo ra con người mới, có kỹ năng, kỹ thuật mới, chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế.
Về quốc phòng, an ninh, tiếp tục đổi mới tư duy về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân trên cơ sở nhận thức đầy đủ biến chuyển lớn, khó dự báo trên thế giới đang tác động mạnh đến quốc phòng, an ninh của đất nước để thích ứng với cơ hội và thách thức mới; vấn đề kết hợp giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Về đối ngoại, hội nhập quốc tế, tiếp tục đổi mới tư duy, xây dựng đường lối đối ngoại thích ứng với cơ hội và thách thức, định vị Việt Nam trong cục diện thế giới hiện nay, làm cơ sở cho thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình và hợp tác bền vững.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhận thức đầy đủ, sâu sắc phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; hoàn thiện lý luận về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đặc biệt là vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xác định sứ mệnh chính trị của Đảng trong lãnh đạo đất nước với yêu cầu rất cao khi đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới; làm sáng tỏ lý luận xây dựng Đảng về đạo đức, xây dựng Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh”. Mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; cơ cấu lại và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới.
Chú trọng cụ thể hóa ba điểm đột phá: i- Hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng; đổi mới việc xây dựng, ban hành nghị quyết; đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số; ii- Hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu; iii- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, kiểm soát quyền lực.
Vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là nhận thức mới về kiểm soát và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Vấn đề hoàn thiện và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh của nhân dân; xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vấn đề định hướng, tuyên truyền, quản lý báo chí, nắm bắt thông tin, dư luận xã hội... nhằm cung cấp luận cứ khoa học sắc bén, phục vụ đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phản động, bảo vệ Đảng, chế độ, bảo vệ nhân dân và quốc gia - dân tộc.
Ba là, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền lý luận:
Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị theo hướng tinh gọn, khoa học, sáng tạo, hiện đại, tăng thực tiễn, học đi đôi với hành; phân tuyến rõ hệ thống trường đảng, chuẩn hóa nội dung giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân; phân cấp rõ mức độ kiến thức từng trình độ bảo đảm tính liên thông, không trùng lặp, tính đối tượng, đặc thù.
Nghiên cứu, áp dụng đa dạng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sinh động, hấp dẫn; ứng dụng công nghệ đa truyền thông, công nghệ số, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data); tăng cường kỹ năng mềm, trải nghiệm thực tế. Thực hiện đồng bộ mục tiêu đổi mới giáo dục lý luận chính trị gắn với mục tiêu tổng thể theo Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12-8-2024, của Bộ Chính trị, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục đổi mới, tăng cường khai thác, ứng dụng triệt để lợi thế công nghệ số, nền tảng công nghệ để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước gắn với phong trào thi đua yêu nước, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đồng thuận trong xã hội.
Gắn chặt giữa nghiên cứu lý luận chính trị với tuyên truyền lý luận chính trị, nhất là kết quả nghiên cứu mới về lý luận đường lối đổi mới, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Hình thành một số tập đoàn truyền thông chủ lực, định hướng dư luận, thông tin đối ngoại, có khả năng cạnh tranh khu vực và thế giới. Xây dựng một số chuyên trang tuyên truyền những thành tựu phát triển của Việt Nam nói chung, vấn đề lý luận chính trị nói riêng ra thế giới, thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại về vấn đề lý luận chính trị.
Bốn là, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh bằng lý luận phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị. Chủ động cung cấp luận cứ, thông tin kịp thời, chính xác, khách quan để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên mạng internet, phương tiện truyền thông xã hội. Triển khai thực hiện phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị trên internet, tăng cường chiếm lĩnh, mở rộng phạm vi, nội dung, hình thức đấu tranh trên không gian mạng. Chủ động đổi mới công tác điều tra dư luận xã hội theo phương thức hiện đại, kịp thời nắm bắt, thông tin nhanh, chính xác, dự báo xu hướng, tình hình, định hướng dư luận.
Năm là, chú trọng xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu mới. Phát huy vai trò chủ trì, phối hợp của Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương trong nghiên cứu, tham mưu xây dựng, cụ thể hóa đường lối của Đảng về lĩnh vực tuyên giáo và dân vận; vai trò quan trọng của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Tạp chí Cộng sản - cơ quan lý luận chính trị của Trung ương Đảng, có chức năng nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục lý luận chính trị của Đảng; Hội đồng Lý luận Trung ương; các viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam - các trung tâm nghiên cứu lý luận, đào tạo khoa học chính trị trọng điểm trong nước và khu vực;... Tăng cường kết nối giữa các cơ quan nghiên cứu và cơ quan hoạch định chính sách, bảo đảm lý luận bám sát đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, có trình độ chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực, khắc phục tình trạng hẫng hụt, thiếu cán bộ, nhất là chuyên gia đầu ngành. Xây dựng cơ chế đặc thù về tuyển dụng, thu hút nhân tài, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, môi trường làm việc, chế độ công tác, thu hút chuyên gia trình độ cao, có năng lực nổi trội, cán bộ trẻ có triển vọng, chuyên gia nước ngoài, cộng đồng chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài, hình thành lực lượng chuyên gia lý luận đầu ngành, mũi nhọn.
Sáu là, mở rộng dân chủ trong nghiên cứu lý luận, giáo dục, tuyên truyền lý luận. Khuyến khích sáng tạo, phát triển tư duy lý luận, đối thoại, thảo luận, tranh biện khoa học nhằm làm rõ vấn đề lý luận mới, vấn đề lý luận lớn nảy sinh trong thực tiễn. Khắc phục tình trạng né tránh, ngại va chạm trong nghiên cứu, bàn luận, trao đổi vấn đề khó, phức tạp. Mở rộng, phát huy vai trò, trí tuệ của đông đảo nhà khoa học và nhân dân tham gia phản biện xã hội, đóng góp ý kiến, sáng tạo lý luận. Xây dựng cơ chế phối hợp, phản ứng nhanh giữa cơ quan lý luận ở Trung ương, cơ quan nhà nước cùng cấp và cơ quan lý luận ở địa phương trong nghiên cứu, tổng kết thực tiễn.
Bảy là, tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, trao đổi lý luận với các đảng cộng sản các nước, với các chính đảng, cơ quan lý luận chính trị, nghiên cứu lý luận chính trị và tổ chức tiến bộ trên thế giới. Đưa hoạt động trao đổi lý luận của Đảng với các chính đảng trên thế giới đi vào chiều sâu, hiệu quả. Tổ chức diễn đàn quốc tế trao đổi kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn giữa các đảng cộng sản, đảng cánh tả các nước.
Tám là, đầu tư nguồn lực tài chính cho các chương trình nghiên cứu lý luận; có cơ chế hỗ trợ kinh phí từ các nguồn tài trợ, hợp tác của tổ chức quốc tế, quỹ nghiên cứu cho cơ quan, viện nghiên cứu, trường đại học. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động hiệu quả vốn đầu tư từ doanh nghiệp, bao gồm cả khu vực kinh tế tư nhân. Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ, cơ sở dữ liệu số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong phân tích, xử lý dữ liệu, hệ thống hóa, số hóa kết quả nghiên cứu. Gắn chặt phát triển lý luận với khoa học, công nghệ, hoàn thiện hành lang pháp lý về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia theo Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị; đẩy mạnh các chính sách đột phá trong thể chế quản lý, quản trị hoạt động nghiên cứu khoa học lý luận, đặc biệt là cơ chế quản lý chương trình, đề tài nghiên cứu, chính sách phân bổ, quản lý nguồn lực tài chính, giải pháp tiếp nhận, ứng dụng kết quả nghiên cứu.
Tổng kết Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” là công việc hệ trọng. Việc xác định “đúng” và “trúng” phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp sẽ quyết định sự thành công của việc định hướng và thực hiện thắng lợi hai mục tiêu “100 năm” trong giai đoạn tới. Kỷ nguyên phát triển mới đặt ra yêu cầu cao, đòi hỏi công tác lý luận của Đảng không ngừng đổi mới, khẳng định bản lĩnh, tầm nhìn, vai trò vượt trước thực tiễn, thực sự xứng tầm sứ mệnh lịch sử, góp phần thiết thực vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa đất nước vững vàng đi lên chủ nghĩa xã hội./.
----------------
(1) 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2045
(2) GS. TS. Tô Lâm: “Rạng rỡ Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 1.055 (tháng 2-2025), tr. 7