Để rồi hôm nay, hành trình khám phá, nghiên cứu khoa học và phát triển nguồn dược liệu thiên nhiên của núi rừng đã trở thành sự nghiệp cả cuộc đời của anh. Anh là NGƯT.PGS.TS Trần Văn Ơn - nguyên Trưởng Bộ môn Thực vật, Trường ĐH Dược Hà Nội, nguyên Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty TNHH MTV Dược Khoa, trường ĐH Dược Hà Nội (Bộ Y tế), Cố vấn Quốc gia Chương trình Quốc gia Mỗi xã Một sản phẩm (OCOP), Chuyên gia đầu ngành về thực vật dược của cả nước.

PGS.TS Trần Văn Ơn - nguyên Trưởng Bộ môn Thực vật, Trường ĐH Dược Hà Nội,Cố vấn Quốc gia Chương trình Quốc gia Mỗi xã Một sản phẩm (OCOP)
Hơn 20 năm qua, một ba lô và chiếc xe bảy chỗ, PGS.TS Trần Văn Ơn đã đi khắp các hang cùng ngõ hẻm Tây Bắc, Đông Bắc. Nếu không đi cùng, quả thực rất khó hình dung những gì mà anh đang làm để hỗ trợ cộng đồng dân tộc thiểu số phát triển các sản phẩm từ đặc sản thế mạnh của địa phương. Nếu lấy xuất phát điểm từ Sa Pa, qua một vòng cung các dãy núi, từ Phanxipăng của Lào Cai đến sống lưng khủng long ở Bình Liêu, cao nguyên đá Đồng Văn, những “học trò từ núi cao” của anh, từ Lý Láo Lở, Nịnh Văn Trắng hay Lý Tà Dèn… đều đang xây dựng những thương hiệu độc đáo từ dược liệu địa phương, từ thuốc tắm cho phụ nữ sau sinh đến “xa xỉ phẩm” như trà hoa vàng. Những người thật thà chất phác, nói tiếng Kinh còn có chút ngọng nghịu, đều chưa học hết lớp 9 này đã trở thành chủ nhiệm hợp tác xã, doanh nghiệp cộng đồng, nơi quy tụ mấy chục, cả trăm hộ gia đình miền núi cùng làm việc. Mỗi người như thế đều mang trong lòng những ước mơ mà ngày trước, họ còn không dám nghĩ tới, như “ông giám đốc” lớp 9 Lý Láo Lở đặt mục tiêu doanh thu 30 – 50 tỉ mỗi năm trong 10 năm tới, Lý Tà Giàng mơ làm vườn bảo tồn dược liệu quý trên “cổng trời” Quản Bạ.
Tập hợp được những người dân nơi này và đưa cho họ cơ hội “làm giàu từ sản vật địa phương” – cụm từ mà người ta thường nhắc đến trong vài năm trở lại đây nhưng chúng tôi chỉ thấm thía giá trị của nó khi cùng PGS. Trần Văn Ơn xuống tận từng hợp tác xã, đó là cả một quá trình kiên trì và nhẫn nại. Có cả ngàn công việc phát sinh trong quá trình gây dựng đó mà vấn đề thường gặp nhất, đó chính là việc thiếu vốn ở giai đoạn khởi nghiệp ban đầu. Bởi vì trước lúc bấy giờ, hầu như chưa một ai ở xã Tả Phìn từng lập doanh nghiệp; người dân lúc đó, chỉ học đến hết cấp hai là nghỉ; và nếu như ngoài một số ít hộ trồng thảo quả có đồng ra, đồng vào thì đa số các hộ còn lại đều sống trong cảnh nghèo tới mức đói ăn. Nhưng trên tất cả, 11 hộ tham gia ban đầu là những hộ khó khăn nhất, nghèo nhất. Có thể họ sẵn sàng lao theo một kế hoạch mạo hiểm để bấu víu vào hy vọng về tương lai tốt hơn, nhưng họ có gì để đóng góp cổ phần vào Sapanapro? Họ đương nhiên không có tiền. PGS.TS Trần Văn Ơn cũng chỉ kêu gọi được tài trợ từ một dự án quốc tế khoảng vài chục triệu. Cuối cùng, giải pháp của anh Ơn là bất cứ thứ gì cũng có thể chuyển thành cổ phần, từ quyền sử dụng đất, từng cột, xà đến tấm gỗ xây nhà, cho đến ngày công lao động. Nhà tắm thuốc đầu tiên của Sapanapro (giờ đã đập bỏ) đã được xây dựng bằng rất nhiều cổ phần ngày công lao động như vậy. Tuy thế, ba năm đầu chưa kinh doanh được nhiều dẫn đến việc thua lỗ. Thậm chí, cứ thi thoảng Lý Láo Lở lại gọi thầy ơi hết tiền, PGS. Ơn lại lấy tiền túi ra cho công ty vay 20, 50 triệu… Phải hiểu rằng đừng có nghĩ là lập ra là xong, mà phải theo đuổi, tận lực tận tâm, thậm chí phải đóng vai trò của ngân hàng. Bây giờ các chương trình hỗ trợ của chúng ta nói rất hay về cho vay vốn, ngân hàng chính sách cũng hứa hay lắm, nhưng vay không cũng không dễ. Bên cạnh đó, còn là những khó khăn vướng mắc đến từ các vấn đề nội tại của người dân như thiếu đoàn kết, thiếu thống nhất hay những kiến thức thiếu xót liên quan đến pháp luật, thủ tục…
Chính sự nhẫn nại và tận tâm giải quyết từng việc tưởng chừng rất nhỏ và tưởng chừng không liên quan đến ngành học của mình đã đưa PGS.TS Trần Văn Ơn theo từng “nhất cử nhất động” của hơn hai chục hợp tác xã, bảy doanh nghiệp các dân tộc thiểu số phát triển sản phẩm nông sản và thảo dược mà anh đã tư vấn gây dựng. Không có chuyện dựng lên rồi “đem con bỏ chợ”, đến ngày hôm nay, anh chưa bao giờ ngừng hỗ trợ bất kỳ một đơn vị nào, dù đã lớn hay còn nhỏ, đã phát triển mạnh hay đang “ngắc ngoải”. Bỏ sao được, đi kèm với những cơ sở đó là số phận của hàng trăm con người, nhất là khi mới có khoảng 1/3 phát triển mạnh, có lợi nhuận cao, 1/3 có lợi nhuận ở mức độ “bình bình”, đủ chia lãi với thu nhập ổn định cho các “cổ đông”, số còn lại vẫn phải vật lộn để sống. Mỗi giai đoạn phát triển, người dân đều vướng vấn đề rất khác nhau nên chỉ những người đã có vài chục năm lăn lộn với miền núi, chứng kiến muôn hình vạn trạng những va vấp khác nhau của các hợp tác xã hay doanh nghiệp cộng đồng như anh mới đủ trải nghiệm, đúc rút thành lý thuyết, nguyên tắc để cùng người dân vượt qua. Hơn tất cả những khung phân tích sinh kế bền vững đang được phân tích “đến nát nước” để làm rõ các nguồn vốn của cộng đồng, anh biết rằng, chỉ có những bài học thực tế mới giúp người dân đi qua tất cả những quanh co khúc khuỷu như cung đường “vạn cua lộ” từ Lào Cai sang Hà Giang mà anh đi, bởi “làm gì có khung sinh kế nào, có ai dạy làm cách nào tìm được người phù hợp để đứng đầu hợp tác xã, cách làm hồ sơ thuế hay tiêu chuẩn sản phẩm, sửa từng lỗi dây chuyền ngoài mình đâu”.

PGS.TS Trần Văn Ơn trao đổi cùng ông Lý Láo Lở, Giám đốc Sapanapro
“Những ‘điển hình tiên tiến’ được báo chí nói nhiều như Sapanapro của Lý Láo Lở ở Sa Pa, Lào Cai mà mình phát triển cũng có xuất phát điểm giống nhau là đều rất khó khăn ở giai đoạn đầu,hồi đó còn khó khăn hơn vì chưa có chương trình nào của nhà nước hỗ trợ như Nông thôn mới hay Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) như bây giờ”, anh giải thích. Quãng 20 năm trước, anh nghiên cứu bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa và phát hiện ra bài thuốc tắm là một tài sản vô cùng quý giá nhưng không người Dao đỏ nào được hưởng lợi từ nó. Ngay thị trấn Sa Pa, những phòng tắm thuốc đều của người… Kinh từ Hà Nội, Hà Tây (cũ) lên mở còn người Dao đỏ, giàu tri thức mà nghèo vẫn hoàn nghèo. Do đó, điều bật ra trong đầu anh là “tốt nhất để người dân là chủ nhân, phát triển dựa trên tri thức của mình” giống hệt bao nhiêu cuốn sách, khung sinh kế bền vững phân tích về các nguồn nội lực của người dân tộc thiểu số như DFID (cơ quan phát triển Anh), IFAD (Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế) được đưa vào Việt Nam thời bấy giờ.
Nhưng “nói một câu quá dễ, ý tưởng nghe đơn giản, lúc xắn tay vào làm mới cực kỳ khó”, khâu đầu tiên là nghiên cứu ra sản phẩm, đơn giản hóa bài thuốc hàng trăm vị của người Dao, chọn lấy phần cốt lõi sau đó chuyển nấu thành cao, loại tạp chất để đưa vào sản xuất chưa phải là khó nhất vì anh chỉ cần nghiên cứu cùng hai “nữ tướng” bản địa Chảo Sử Mẩy và Lý Mẩy Chạn. Nhưng bắt đầu từ khâu chuyển giao kết quả nghiên cứu này mới thực sự “đau đầu”: “Câu hỏi lớn nhất là tôi nghiên cứu xong rồi thì trả cho ai? Chẳng lẽ trả cho ủy ban xã? hay một cá nhân nào? đây là tri thức của cộng đồng thì các phương án ấy đều không phù hợp. Chia sẻ thành quả từ tài sản trí tuệ này như thế nào? Mở tất cả các sách ra không chỗ nào nói về tình huống này, một mớ lý thuyết phát triển của Anh, Mỹ không hề phù hợp với mình”, anh kể. Doanh nghiệp cộng đồng của người Dao đỏ Sapanapro được lập ra, anh chuyển giao nghiên cứu và giúp đỡ cách tổ chức sản xuất, Lý Láo Lở làm giám đốc dù chỉ mới học chưa hết trung học cơ sở, từ chỗ chưa từng cầm chứng từ, con dấu, chạy dây chuyền sản xuất đến nay có doanh thu hơn chục tỉ mỗi năm và trở thành gương mặt “quen thuộc” của cộng đồng khởi nghiệp từ vốn bản địa. “Công ty đó cho tôi bài học rất lớn, đó là để trí tuệ cộng đồng ấy không bị mất đi, chỉ có một con đường là để cộng đồng người dân sở hữu chính tài sản của mình, và mình phải cùng họ đứng lên làm chủ vận mệnh”, anh nói. Hơn tất cả những khung phân tích sinh kế bền vững đang được phân tích “đến nát nước” để làm rõ các nguồn vốn của cộng đồng, PGS.TS Trần Văn Ơn biết rằng, chỉ có những bài học thực tế mới giúp người dân đi qua tất cả những quanh co khúc khuỷu như cung đường “vạn cua lộ” từ Lào Cai sang Hà Giang mà anh đi, bởi “làm gì có khung nào, có ai dạy làm cách nào tìm được người phù hợp để đứng đầu hợp tác xã, cách làm hồ sơ thuế hay tiêu chuẩn sản phẩm, sửa từng lỗi dây chuyền ngoài mình đâu”.
Những công việc như thế hút phần lớn quỹ thời gian của anh, đến mức dường như mọi vật dụng của anh đều chiểu theo “hệ quy chiếu vùng cao”. Chiếc xe Mitsubishi 7 chỗ rút cục tiện việc di chuyển bởi gầm cao có thể vượt các khúc cua đường núi dễ dàng, cốp rộng đựng được đủ thứ hầm bà lằng nào lá cây cỏ cho đến hộp to hộp nhỏ những sản phẩm mẫu.Năm 2012, anh Ơn có dịp gặp Thủ tướng Phạm Minh Chính, khi đó là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh. Anh đưa ra đề xuất và nhanh chóng nhận được sự đồng thuận. Và thế là Quảng Ninh đã trở thành tỉnh đầu tiên áp dụng chương trình OCOP trên quy mô toàn tỉnh với sự tư vấn của Công ty DKpharma từ năm 2012, khi đó anh làm Giám đốc. Sau đó, Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường đã đề cập và trao đổi với PGS.TS Trần Văn Ơn về việc triển khai chương trình OCOP trên quy mô toàn quốc. Trong Hội nghị tổng kết OCOP gắn với cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp do Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chủ trì, anh vẫn áo sơ mi cũ, không vest đứng trên bục diễn giả, từ tốn và rành mạch nêu quan điểm của một người “khơi mào” ra chương trình OCOP đầu tiên trong cả nước ở tỉnh Quảng Ninh, đó là: làm sao để “phát triển từ dưới lên”, không áp một mô hình chung cho cả nước bởi bức tranh khó phát triển là chung nhưng đặc sản, đặc thù văn hóa, các nguồn vốn của từng nơi rất khác nhau mà không bài học kinh nghiệm nào giống nhau cả. Những sản phẩm tiêu biểu của Chương trình OCOP do PGS.TS Trần Văn Ơn đề xuất có thể kể đến như Vườn cây thuốc của Lý Tà Dèn, chủ nhiệm hợp tác xã Nậm Đăm trên cổng trời Quản Bạ, Hà Giang. HTX cộng đồng Nậm Đăm có 7 sản phẩm chính đã được Bộ Y tế cấp phép và được ưa chuộng gồm: cao củ dòm; cao atiso; cao bổ tỳ ích não; trà gừng cao nguyên đá; dầu xoa bóp; thuốc đau răng; các sản phẩm tinh dầu…
Trường hợp các doanh nghiệp cộng đồng như Sapanapro, DK Natura là “nguyên mẫu” để anh Ơn tư vấn thành công cho tỉnh Quảng Ninh xây dựng chương trình OCOP (mỗi xã phường một sản phẩm) ngay từ khi cả nước chưa biết đến chương trình này, và lồng ghép việc phát triển các vườn dược liệu dọc theo các hợp tác xã ở phía Tây của Quảng Ninh. Không dừng lại ở 20 hợp tác xã và doanh nghiệp cộng đồng, anh mơ tới ngày nhân rộng những mô hình này, xây dựng một cung đường thảo dược – áp dụng cách tiếp cận mới theo tháp thảo dược.Vì thế, bắt đầu hành trình “di thực” OCOP lên Hà Giang, Bắc Kạn, vào Quảng Nam… có khi đều là các “hợp tác xã không đồng” nhưng anh vẫn cần mẫn viết chương trình riêng cho từng tỉnh, huyện, đánh giá từng đặc điểm của hợp tác xã, vì “mỗi nơi một kiểu không đồng”. Tất nhiên còn nhiều nỗi lo ở đó, “vì tâm lý, thói quen của cán bộ mình là vốn áp chế người dân phải làm cái này cái kia, không tôn trọng sự sáng tạo của người dân. Nhưng bàn tay có ngón dài ngón ngắn, có chỗ làm tốt chỗ chưa tốt, phải kiên trì, mất thời gian sẽ làm được”, anh nói.
“Tôi sinh ra từ miền núi, từ bé đã chứng kiến mẹ, ông ngoại tìm thuốc chữa bệnh nên khi học dược tôi đã quyết tâm nghiên cứu những bài thuốc từ cây cỏ”, anh kể. Là người Sán Chay đầu tiên của xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, Thái Nguyên bước chân vào giảng đường Đại học Dược, xuất thân “không đồng” nhưng dày vốn liếng nhờ “lớn lên cùng cây cỏ, thuộc mặt từng lá thuốc trong rừng” anh đã bước vào con đường nghiên cứu dược liệu. Tận tay, tận mắt thấy những bài thuốc dân gian chữa nhiều bệnh nan y như động kinh, tràn dịch khớp cho đến chăm sóc sản phụ, anh hiểu rằng, kho tàng này là một trong những nguồn vốn quý giá nhất của cộng đồng tộc người, nhưng đang ngày càng lép vế trước thuốc Tây. “Sau này mình học lên mới thấy, trên thế giới có hàng trăm loại thuốc được gọi là thuốc Tây ngày nay thực ra xuất phát từ kinh nghiệm của người dân, từ cộng đồng, ví dụ như caffein từ cây cafe, reserpin từ cây ba gạc. Hà cớ bây giờ ta lại xóa bỏ, lãng quên nó đi”, anh nói.
Là học trò “chân truyền” của Giáo sư Trần Công Khánh, một cây đại thụ trong nghiên cứu các cây thuốc dân tộc cổ truyền Việt Nam, PGS. Trần Văn Ơn đã phát triển những hướng đi riêng về một số loại dược liệu đặc thù trong nghiên cứu trên cái nền nghiên cứu về thực vật. Tiếp bước thầy, anh góp sức cùng nghiên cứu, chọn lọc hàng trăm bài thuốc dân gian của các dân tộc thiểu số, trở thành một trong hai nhà nghiên cứu hiếm hoi ở Việt Nam chuyên sâu về bảo tồn cây thuốc. Vài năm gần đây, tên tuổi anh lại gắn liền với sản phẩm thuốc từ Dây thìa canh cho người mắc tiểu đường. “Mỗi nhà nghiên cứu dược liệu như mình chắc cả đời chỉ chuyên chú nghiên cứu làm ra thuốc từ một loại cây thôi, bởi gắn với nó là hàng chuỗi công đoạn, từ đánh giá tác dụng sinh học, độ an toàn, tìm dược chất, công bố, thử nghiệm lâm sàng, hơn chục năm mới ra sản phẩm”, anh kể. Nhưng anh hiểu rằng cần cù trong phòng lab, công bố quốc tế, nghiên cứu để bảo tồn nhiều mấy thì vẫn không giải quyết được những gì đang bày ra trước mắt ở nông thôn, miền núi đó là “có tri thức – nhân lực – đất đai – cảnh quan – đa dạng sinh học nhưng không thể biến thành tiền”.

PGS.TS Trần Văn Ơn cùng đồng nghiệp và người dân địa phương trong một chuyến công tác.
Cũng nhờ bước ra từ rẻo cao, am hiểu “cách thức sinh hoạt, suy nghĩ, tâm lý, tập tục” nên anh làm việc với cộng đồng dễ dàng, tự nhiên. Bài toán phân chia tài sản trí tuệ ở Sapanapro và các hợp tác xã khác nghe phức tạp, nếu đem luật ra giải thích cả ngày người dân vẫn rất mệt mỏi và căng thẳng nhưng khi anh nói “ta nên làm theo luật phường săn” thì ai cũng hài lòng, bởi cộng đồng nào cũng có cách thành quả lao động chung theo luật lệ rõ ràng rành mạch, chỉ là không ai biết gọi thành tên theo luật.
Nhìn lại chặng đường mấy chục năm đó, anh tạm chia ba giai đoạn, mười năm đầu lăn lộn với cây thuốc, mười năm sau bắt đầu hỗ trợ từng hợp tác xã thương mại hóa sản phẩm bản địa, mười năm gần đây tạo thành một mạng lưới OCOP. Còn mười năm tới thì sao? Anh đang ấp ủ một ước mơ biến Việt Nam thành “vườn thảo dược” của thế giới, với các trục văn hóa thảo dược đang dần hình thành như: Trục Văn hóa – thảo dược Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Trục Văn hóa – thảo dược Cao Nguyên Đá (Hà Giang), Trục Văn hóa – thảo dược Việt Bắc (Thái Nguyên – Bắc Kạn – Cao Bằng), Thung lũng dược liệu Ngọa Vân – Yên Tử (Quảng Ninh), Trục Văn hóa – thảo dược Hội An – Trà My (Quảng Nam) và một số vườn cây thuốc đã dần hình thành. Việt Nam cần phải làm và đủ điều kiện để thay đổi vị thế của nước có lợi thế tài nguyên sinh vật và tri thức bản địa nhưng nhập khẩu tới 90% dược liệu.
Trong bối cảnh đất nước đã bước vào kỷ nguyên vươn mình, theo PGS.TS Trần Văn Ơn, trong ngành nông nghiệp, dược liệu bên cạnh việc nắm bắt và làm chủ các công nghệ hiện đại của thế giới, chúng ta cần đẩy mạnh khai thác và tận dụng lợi thế, tiềm năng sẵn có trong nước. Khi mà việc phát triển các sản phẩm công nghiệp còn hạn chế, khó khăn khiến các doanh nghiệp nản lòng trong giai đoạn mà Trung Quốc dường như đã phi công nghiệp hóa toàn thế giới, thì chúng ta nên tập trung nghiên cứu, nhân rộng mô hình trồng các cây nông nghiệp có thế mạnh, các sản vật địa phương, vùng đất giàu truyền thống văn hóa dân tộc…nhằm xây dựng ngành công nghiệp du lịch để có lợi thế cạnh tranh với thế giới. Song song với đó, chúng ta cũng cần lưu tâm tiếp tục đẩy mạnh, nâng cấp chương trình OCOP sâu rộng trên khắp cả nước.
PGS.TS Trần Văn Ơn hào hứng chia sẻ với tôi về một “cuộc chiến” mới mà anh đang triển khai, đó là tìm hiểu, xây dựng một ngân hàng dữ liệu số về các bài thuốc dân gian, các thầy lang với những kinh nghiệm điều trị truyền đời cho người dân. Anh cho rằng, đó có thể là phương án tốt để hỗ trợ họ phát triển, cũng là nâng tầm ngành Y học cổ truyền Việt Nam, đồng thời xóa đói giảm nghèo cho người dân ở các địa phương xa xôi, hẻo lánh. Ý tưởng của PGS.TS Trần Văn Ơn là tập trung xây dựng một mạng lưới các thầy lang trên khắp cả nước, khởi nghiệp và hình thành các mô hình du lịch điều trị, chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng. Đây là việc rất khó, nhưng với “nhà khoa học của núi rừng” ấy, nếu không làm thì chúng ta sẽ không có cơ hội…
Nghe quá lớn và quá khó, khó hơn nhiều lần so với việc giúp từng chuỗi đặc sản hay từng tỉnh, huyện làm OCOP. Anh biết vậy và biết chỉ có anh và nhóm đồng sự vỏn vẹn vài chục người là các học trò đi phát triển ở từng địa phương thì không thành hiện thực được, mà cần nhiều người cùng hướng chung một tầm nhìn này. “Thực sự mà nói, đất nước mình không có tầm nhìn chung chứ không hề bắt tay vào đưa ra đích đến cùng các giải pháp thực tế. Nhìn sang ngay Thái Lan thì ta thấy họ có tầm nhìn rất rõ: một là vùng Đông Bắc của Thái Lan sẽ trở thành trung tâm chăm sóc sức khỏe bằng thảo dược và y học truyền thống Thái Lan và massage Thái, thứ hai là Thái Lan sẽ trở thành nước dẫn đầu thế giới về mỹ phẩm thảo dược. Họ nói điều đó từ 20 năm và đang dần trở thành hiện thực”, anh nói. Anh không ngại khó ngại khổ, và đã từng thất bại khi làm vườn dược liệu Ngọa Vân Yên Tử ở Quảng Ninh, lúc đầu 5ha thử nghiệm thì thành công, nhưng đến lúc mở rộng quy mô thành vườn dược liệu vài chục ha và giờ vườn dược liệu thành …vườn rau. Nhưng cũng giống như giúp Sapanapro hay OCOP, sẽ cần một hành trình nhiều năm kiên trì kêu gọi vốn cộng đồng, thúc đẩy mạng lưới từ những người làm dược, doanh nghiệp, chính quyền, người dân…