21/06/2025 lúc 20:18 (GMT+7)
Breaking News

Vai trò của các tổ chức KH&CN trong việc thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo: Ứng dụng công nghệ, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu

Công đồng các tổ chức KH&CN đón chào Nghị quyết 57 của Trung ương như một luồng gió mát thổi vào khu vực nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo của cả nước đang như khô cằn vì cơ chế chính sách hiện hành không phát huy hiệu quả.

Hầu hết mọi quốc gia đều có các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho phát triển KHCN&ĐMST, ở các mức độ khác nhau, theo khả năng của mình tại mỗi thời điểm.

Việt Nam cũng đã có rất nhiều nghị quyết và chính sách ưu đãi cho phát triển KHCN và thúc đẩy ĐMST. Nếu điểm danh các cơ chế ưu đãi dành cho KHCN và ĐMST có lẽ chúng ta cảm nhận thấy cũng khá đầy đủ và phong phú, nằm ở các luật đầu tư, thuế, đất đai, KHCN, chuyển giao CN, CN cao, môi trường, đấu thầu v.v..

Ảnh minh họa - TL

Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ các chính sách ưu đãi trong giai đoạn nghiên cứu phát triển được phát huy và thực hiện ở một mức độ.

Còn các ưu đãi của giai đoạn ứng dụng, tham gia thị trường là rất hãn hữu đó là ưu đãi trong các luật về đầu tư, đất đai, môi trường, đấu thầu v.v…, các tổ chức nghiên cứu KHCN và ĐMST chỉ thực được hưởng thụ khi chuyển sang giai đoạn đầu tự, sản xuất và tham gia thị trường. Tuy chưa có nghiên cứu thống kê đầy đủ nhưng chắc chắn là một con số rất thấp. Hãy nhìn vào số lượng các tổ chức, cá nhân thành công, làm giầu từ sản phẩm KHCN, ĐMST là rất ít tính trên số lượng các giải thưởng lớn hàng năm như Giải thưởng Sao Đỏ, Sao Vàng v.v… va số lượng hàng vạn các tooe chức cá nhân hoạt động nghiên cứu KHCN, ĐMST trên cà nước. Số triệu phú đô-la giầu lên từ kết quả KHCN, ĐMST đã được công nhận chỉ đếm trên đầu ngón tay, tỷ phú thì dường như chưa có. Con số tổ chức, cá nhân có sản phẩm KHCN, ĐMST ra thị trường thế giới lại càng ít ỏi. Trong khi đó, số lượng tổ chức, các nhân đầu tư hàng triệu, hàng tỷ đồng vào nghiên cứu, chính phục KHCN, ĐMST trở về tay trắng lên tới hàng ngàn, có thể cả chục ngàn.

Thực tế đáng buồn trên vô hình chung đã dập tắt, làm nguội hoặc làm bao nhiêu người trong xã hội trở lên hoài nghi, thoái chí nản lòng, ngoảnh mặt với nghiên cứu KHCN, ĐMST và lựa chọn còn đường mưu sinh truyền thống là làm công ăn lương.

Nếu thực tế này cứ tiếp diễn thì đất nước không thể phát triển bứt phá, cứ mãi ở mức bình bình, GDP tăng trưởng ở mức 6-7%, rồi theo thời gian dần dần hết dư địa phát triển, tăng trưởng bão hòa.

Đó là nguy cơ tụt hậu hiện hữu nhất.

Nghị quyết 57 ra đời trong bối cảnh đó, mang lại hứng khởi và kỳ vọng cho hàng vạn tổ chức cá nhân đam mê KHCN, ĐMST trên cả nước.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu có thể thấy, mặc dù các cơ chế, chính sách, giải pháp đưa ra trong NQ57 đã rất cách mạng, đột phá và chỉ ra đúng các vấn đề cần tháo gỡ, cần cới trói, song vẫn còn thiếu một huyệt đạo cần được qaun tâm tháo gỡ triệt để, đó là giải quyết đầu ra cho các sản phẩm KHCN, ĐMST.

Lẽ thường tình, tổ chức, cá nhân KHCN, ĐMST chỉ thực sự thành công khi sản phẩm của họ có đầu ra là thị trường. Không có thị trường, không bán được hàng thì không có nguồn thu, Không ai bỏ vốn đầu tư khi không nhìn thấy nguồn thu, ngân hàng cũng ngoảnh mặt, quỹ đầu tư cũng ngoảnh mặt.

Tổ chức, cá nhân KHCN, ĐMST không chuyển sang trạng thái có dự án đầu tư cơ sở sản xuất các sản phẩm là kết quả của quá trình nghiên cứu của họ thì chỉ đứng nhìn, không được hưởng các cơ chế chính sách ưu đãi hào phóng tại các luật đầu tư, thuế, KHCN, chuyển giao CN, Công nghệ Cao hay môi trường đã dày công xây dựng, chỉ nằm trên giấy.

Vì vậy, để thay đổi trạng thái trên, điều cần nhất, hơn bao giờ hết là nhà nước phải thực hiện đầy đủ vai trò kiến tạo thị trường, đảm bảo một môi trường đầu tư kinh doanh cạnh tranh bình đằng thực sự, bao gồm thị trường mua sắm công và thị trường mua sắm tư nhân trong nước và thậm chí hỗ trợ vươn ra thị trường quốc tế.

Một sản phẩm KHCN, ĐMST có tốt, có cất lượng, giá cả cạnh tranh bằng mấy cũng không thể cạnh tranh trong một thị trường tràn lan hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng phi tiêu chuẩn. Chỉ có cơ quan quản lý thị trường và cơ quan mua sắm công, cùng với các cơ quan thực thi bảo vệ pháp luật của nhà nước mới có thể cầm cân, nảy mực trên thị trường, để hàng hóa được trao đổi, buôn bán, giao thương đúng giá trị đồng tiền.

Qua nghiên cứu, để khắc phục bất cập trên, trong quá trình xây dựng các cơ chế chính sách hiện thực hóa các NQ57 và NQ 66, Nhà nước nên có ngay một số giải pháp cụ thể để áp dụng càng sớm càng tốt trên thực tế, như sau

Một là, đối với thị trường mua sắm hàng hóa, dịch vụ công:

  • Cơ quan quản lý chuyên ngành ở trung ương có trách nhiệm tổ chức đánh giá và công bố sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, công nghệ từ kết quả nghiên cứu KHCN, ĐMST, dự án thử nghiệm công nghệ mới, công nghệ tiên tiến có chất lượng và giá thành tốt nhất hiện hữu trên thị trường theo định kỳ hàng năm.
  • Cơ quan mua sắm công ở trung ương và địa phương có trách nhiệm đặt hàng, sử dụng các hàng hóa, dịch vụ tốt nhất hiện hữu được công bố như trên, không phải qua đấu thầu.
  • Tổ chức cung cấp đúng chất lượng các sản phẩm, dịch vụ tốt nhất hiện hữu với giá thành công bố ít nhất trong 5 năm kể từ khi công bố và điều chỉnh giá theo mức lạm phát công bố theo từng thời kỳ tiếp theo.
  • Nhà đầu tư dự án cung cấp dịch vụ công sử dụng công nghệ tiên tiến nhất hiện hữu đã công bố được chỉ định thầu trên phạm vi cả nước.
  • Vào bất cứ thời điểm nào, mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền yêu cầu cơ quan quản lý chuyên ngành ở trung ương tổ chức nghiệm thu, đánh giá sản phẩm, dịch vụ, công nghệ mới từ kết quả nghiên cứu KHCN, ĐMST để so sánh với sản phẩm, dịch vụ, công nghệ

Cơ sở lý luận của đề xuất trên:

+ Đề xuất trên phù hợp với nguyên tắc cơ bản trong Luật Đấu thầu là hiệu quả, cạnh tranh, công khai và minh bạch. Nguyên tắc của mua sắm công cũng như mua sắm cá nhân là chọn được món hàng có chất lượng tốt nhất và giá thành rẻ nhất, theo lẽ thường tình là hàng mua về phải “đáng đồng tiền bát gạo”.

+ Thực chất, quy định trên chính là một hình thức mua sắm công tập trung đã có quy định trong luật Đấu thầu.

+ Chỉ có điểm khác biệt là bộ quản lý chuyên ngành chỉ tổ chức đánh giá công nghệ về chất lượng và giá thành để công bố là sản phẩm tốt nhất hiện hữu để các cơ quan mua sắm ở trung ương và địa phương không phải tổ chức đấu thầu, lặp đi lặp lại cùng một quy trình, gây lãng phí ngân sách và lãng phí thời gian cho việc đấu thầu. Các cơ quan mua sắm chỉ việc ký hợp đồng theo mẫu sẵn với chất lượng và đơn giá công bố.

+ Giải pháp trên cũng giảm thiểu tối đa rủi ro tham nhũng, giảm chi phí quản lý liêm chính ở tất cả các cấp, đồng thời giảm thiểu rủi ro công vụ cho các cán bộ công chức và lãnh đạo của đơn vị mua sắm.

+ Rủi ro công vụ là nguyên nhân chính dẫn đến chậm trễ, đùn đẩy trách nhệm trong đấu thầu, mua sắm công và là nguyên nhân chính dẫn đến chậm giải ngân cách dự án đầu tư mua sắm công.

+ Do đó, giải pháp này còn góp phần chấm dứt tình trạng giải ngân đầu tư công năm nào cũng thấp ở cả trung ương và địa phương, làm đẩy nhanh hiệu quả lan tỏa của đầu tư công và góp phần tăng trưởng GDP của trung ương và địa phương. Có tiền mà không tiêu được là điều mà Đảng và nhân dân không thể chấp nhận.

+ Đây không phải là một hình thức tạo độc quyền, bởi vì sản phẩm công bố chỉ là tốt nhất hiện hữu. Tức là nó chỉ tồn tại cho đến khi nào bị một sản phẩm khác xuất hiện có chất lượng tốt hơn và giá thành cạnh tranh hơn, “đáng đồng tiền bát gạo hơn” thay thế.

+ Trái lại, chính giải pháp này mới tạo ra động lực thực sự cho một sự cạnh tranh lành mạnh nhất, khơi dậy, khích lệ mọi tổ chức cá nhân đam mê nghiên cứu, sáng tạo, hình thành một phong trào sôi nổi tham gia nghiên cứu KHCN, ĐMST. Tổ chức cá nhân có sản phẩm xuất sắc nhất đáng được hưởng thành quả của lao động trí tuê mà họ lao tâm khổ tứ để tạo ra.

Một lẽ thường tình, làm ra sản phẩm mà chỉ có nhà nước là bên mua, mà Nhà nước không mua thì bán cho ai. Không bán được hàng mà cứ lao vào nghiên cứu là tự tử. Không ai muốn tự tử. Vì vậy, giải pháp này không còn là sự lựa chọn, đắn đo nào nữa. Đó là điều lẽ ra phải làm từ lâu. Mọi quốc gia đều làm vậy> Cho nên Việt Nam phải làm ngay.

Hai là, đối với hàng hóa phục vụ xã hội, tiêu dùng cá nhân:

  • Các cơ quan quản ký nhà nước phải đồng tâm, hiệp lực thực thi mạnh mẽ, quyết liệt các quy định pháp luật về quản lý thị trường, chống hàng nhái, hàng giả, hàng phi tiêu chuẩn tạo một thị trường cạnh tranh lành mạnh.
  • Cơ quan KHCN phải hỗ trợ thử nghiệm, đánh giá, đo kiểm và công bố các hàng hóa, sản phẩm là kết quả của hoạt động nhiên cứu KHCN, ĐMST đủ điều kiện tham gia thị trường bằng kinh phí ngân sách.
  • Định kỳ hàng năm, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức đánh giá, bình chọn, trao giải một cách tường minh, công bằng, dựa trên bằng chứng khoa học là kết quả đo kiểm xác thực để công bố sản phẩm xuất sắc.
  • Bộ Công Thương hỗ trợ quảng bá, tiếp thị, tham gia hội trợ, triển lãm đối với các hàng hóa sản phẩm dịch vụ được trao các giải thưởng quốc tế, quốc gia và khu vực.

Ba là, cơ chế chung đối với tất cả các sản phẩm KHCN, ĐMST:

  • Bộ KHCN có trách nhiệm kịp thời công bố các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia mới trên cơ các kết quả đo kiểm sản phẩm mới là kết quả của nghiên cứu KHCN, ĐMST trong năm, không quá 6 tháng kể từ khi công nhận sản phẩm mới có tính đột phá, vượt trội so với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quốc tế hiện hành về an toàn cháy nổ, bảo vệ sức khỏe người dân và bảo vệ môi trường.
  • Các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu KHCN, ĐMST được sử dụng miễn phí phòng thí nghiệm, dịch vụ đo kiểm của nhà nước trong quá trình nghiên cứu, phát triển và công nhận chất lượng sản phẩm.
  • Đại diện các tổ chức có sản phẩm công nghệ xuất sắc, có khả năng tham gia thị trường toàn cầu được tham gia các đoàn xúc tiến đầu tư, thương mại tháp tùng chuyến thăm chính thức của lãnh đạo Đảng và Nhà nước hoặc các chương trình xúc tiến thương mại đầu tư do bộ ngành trung ương và các địa phương tổ chức, được hỗ trợ ngân sách nhà nước về chi phí lưu trú và đi lại.
  • Các cơ quan đại diện thương mại và ngoài giao của nhà nước tại các quốc gia và các tổ chức quốc tế có trách nhiệm hỗ trợ các tổ chức cá nhân có sẳn phẩm KHCN, ĐMST xuất sắc liên hệ với các đối tác quốc tế để mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh và nghiên cứu KHCN.

Có thể khẳng định, , đây là giải pháp mang tính quyết định nhất cho sự thành bại của Nghị quyết 57, kết hợp với các Nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị sẽ thực sự thay đổi về chất cho phong trào phát triển KHCN, ĐMST trên phạm vi cả nước hướng tới mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số trong gia đoạn tới, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tạo nền tằng vững chắc đưa đất nước ta bước vào kỳ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình vì của hạnh phúc, ấm no của toàn dân, đất nước văn minh, giầu mạnh, sánh vai với cường quốc năm châu như Bác Hồ Kính yêu hằng mong ước.

Viện Quy hoạch và Phát triển

...