
Ảnh minh họa - VNHN
Một quyết sách mang tính đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế
Trước hết phải nhận thức rằng, Nghị quyết số 59 là một trong “Bộ tứ trụ cột” giúp Việt Nam cất cánh trong giai đoạn mới. Đó là: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 68- NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Được ban hành trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, đòi hỏi Việt Nam phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để tận dụng cơ hội, ứng phó thách thức, Nghị quyết số 59 -NQ/TW nhấn mạnh mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, và phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI. Nghị quyết là kim chỉ nam cho mọi hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường.
Quan điểm xuyên suốt được thể hiện tại Nghị quyết số 59 là: Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể sáng tạo.
Trong đó, mục tiêu tổng quát bao gồm: Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện, sâu rộng, của hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần thiết thực xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh, bền vững; hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; không ngừng cải thiện toàn diện đời sống nhân dân, vì hạnh phúc của Nhân dân; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia; nâng cao vị trí, vai trò và uy tín quốc tế của đất nước. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mục tiêu cụ thể là: Hội nhập kinh tế quốc tế; Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh; Hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục – đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác; Nâng cao năng lực và bản lĩnh chính trị hội nhập quốc tế.
Đặc biệt, Nghị quyết đề ra những định hướng chiến lược toàn diện và sâu sắc, cụ thể cho từng lĩnh vực. Về kinh tế: Đẩy mạnh hội nhập gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hiện đại; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Về chính trị, quốc phòng, an ninh: Hội nhập đi đôi với củng cố quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tăng cường tin cậy chính trị, giữ vững độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước. Về khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường: Tận dụng hội nhập để nâng cao trình độ quốc gia, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Với những nội dung được quán triệt, Nghị quyết số 59 -NQ/TW của Bộ Chính trị có ý nghĩa lớn trong công tác đối ngoại hiện nay. Nghị quyết khẳng định tầm quan trọng của đối ngoại trong bối cảnh mới; yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng tham gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp trong quan hệ quốc tế. Qua đó giúp Việt Nam không bị động trước thay đổi của thế giới, mà chủ động định hình môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển; Tạo động lực phát triển mới cho đất nước, kết nối sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, tận dụng cơ hội từ hội nhập quốc tế; Tạo thế cân bằng trong quan hệ quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia và tăng cường uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả của ngoại giao, phù hợp với thời đại công nghệ và hội nhập sâu rộng.

Gạo Việt Nam hiện diện tại Siêu thị ở Nhật Bản. Ảnh: TL
Tiến trình hội nhập quốc tế và những giải pháp nâng cao
Kể từ sau Đại hội VI (1986) bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã liên tục khẳng định chủ trương hội nhập và làm rõ, mở rộng cách tiếp cận từ hội nhập kinh tế sang hội nhập toàn diện để khơi thông, mở rộng quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao vai trò, vị thế của quốc gia, đưa Việt Nam hội nhập vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế quốc tế và nền văn minh nhân loại. Đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia; có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 34 nước; là thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế; tham gia các thỏa thuận hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA); lọt vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; thuộc 20 nền kinh tế thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất thế giới từ năm 2019 đến nay… Quá trình hội nhập quốc tế giúp cho chúng ta nâng cao khả năng giữ vững sự độc lập, tự chủ quốc gia và phát triển kinh tế. Từ xuất phát điểm 22 tỷ USD của nền kinh tế hai miền vào năm 1975, đến nay nước ta đã lọt tốp 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới, có quy mô kinh tế tăng gần 100 lần so với năm 1986 với thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD lên gần 5.000 USD/năm. Cũng trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta “nâng tầm” hội nhập kinh tế đồng thời với việc tăng cường sức mạnh nội sinh, xây dựng các thể chế kinh tế hướng tới hội nhập quốc tế trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường; bảo đảm nền kinh tế của đất nước không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Nguyên tắc cốt lõi là đặt lợi ích quốc gia ở vị trí số một trong hội nhập quốc tế… Tuy nhiên, bên cạnh nhiều cơ hội thì quá trình hội nhập quốc tế cũng đặt ra không ít thách thức như nguy cơ tấn công mạng và an toàn dữ liệu cá nhân, an ninh lương thực và an ninh năng lượng, cạnh tranh không công bằng, tăng trưởng không bền vững, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động…
Để quán triệt và triển khai hiệu quả Nghị quyết số 59‑NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong tình hình mới, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội cần tập trung làm sâu sắc nhận thức, đổi mới tư duy và thực hiện đồng bộ các giải pháp xuyên ngành. Cụ thể: Về công tác Tuyên truyền, phổ biến chuyên sâu: Cần Xây dựng chương trình quán triệt cho các cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ, công chức, viên chức– đa dạng hoá hình thức (hội thảo, trực tuyến, tài liệu chuyên đề), được cụ thể hóa theo từng nhóm đối tượng. Làm rõ yêu cầu đổi mới tư duy, nhận thức và hành động trong hội nhập quốc tế – coi đây là trách nhiệm chính trị, cách mạng, không chỉ là nhiệm vụ ngoại giao. Về công tác Đào tạo, nâng cao năng lực: Tăng cường tập huấn, đào tạo cán bộ làm công tác đối ngoại– đặc biệt là ngoại giao số, kỹ năng tranh thủ, dự báo quốc tế. Chủ động tư vấn, phản ứng chính sách linh hoạt với diễn biến quốc tế, phù hợp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Việc quán triệt và triển khai Nghị quyết 59 đòi hỏi sự chỉ đạo xuyên suốt từ cấp Trung ương đến địa phương, sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ ngành, cùng với việc đổi mới tư duy – đổi mới hành động. Thực hiện hiệu quả Nghị quyết sẽ góp phần tích cực đẩy mạnh hội nhập toàn diện, sâu rộng; nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế; đóng góp vào xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường – định hướng đến giữa thế kỷ XXI trở thành quốc gia thu nhập cao.
Để đạt được mục tiêu Nghị quyết số 59-NQ/TW đề ra, Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới tư duy, nhận thức và hành động trong hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số. Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh sâu rộng, toàn diện và hiệu quả hơn, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, nâng cao tiềm lực và vị thế quốc tế của đất nước. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, mở rộng không gian phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục - đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác. Nâng cao năng lực thực thi các cam kết, thỏa thuận quốc tế gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực thi và đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trong nước. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều phối công tác hội nhập quốc tế; phát huy vai trò tích cực, chủ động của các địa phương. Xây dựng Đề án Việt Nam chủ động tham gia vào các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế. Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực của các cơ quan, đội ngũ cán bộ tham gia các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế, góp phần xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Đổi mới, nâng cao tính chủ động, chất lượng, hiệu quả, đa dạng hóa các kênh, khuôn khổ và hình thức phối hợp, trao đổi thông tin giữa các bộ, cơ quan đầu mối đối ngoại và hội nhập quốc tế của các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, phù hợp với thực tiễn công tác, nhằm tạo chuyển biến thực chất trong công tác phối hợp triển khai công tác hội nhập quốc tế. Hình thành và triển khai hiệu quả các cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin, các cơ sở dữ liệu liên ngành trong các vấn đề/lĩnh vực mới nổi lên trong quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế, tiến tới xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về hội nhập và hợp tác quốc tế…
Các cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị căn cứ nội dung Nghị quyết số 59-NQ/TW và chức năng, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương để chủ động chỉ đạo thực hiện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp gồm: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đổi mới tư duy, nhận thức và hành động trong hội nhập quốc tế trong tình hình mới. (2) Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ xây dựng nền kinh tế độc lập; tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số. (3) Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh sâu rộng, toàn diện và hiệu quả hơn, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, nâng cao tiềm lực và vị thế quốc tế của đất nước. (4) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, mở rộng không gian phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước. (5) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về văn hóa, xã hội, du lịch, môi trường, giáo dục - đào tạo, y tế và các lĩnh vực khác. (6) Nâng cao năng lực thực thi các cam kết, thỏa thuận quốc tế gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực thi và đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trong nước. (7) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều phối công tác hội nhập quốc tế; phát huy vai trò tích cực, chủ động của các địa phương.
Thực tiễn cho thấy, để thực hiện tốt quá trình hội nhập quốc tế, cần phải xác định nội lực có vai trò quyết định, phải củng cố sức mạnh nội tại đi đôi với với tranh thủ ngoại lực. Nội lực là nguồn lực chính, là gốc rễ cho sức mạnh. Tuy nhiên, nội lực của chúng ta hiện tại chưa thực sự vững chắc. Phần lớn giá trị xuất khẩu vẫn do các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tạo ra, dẫn đến tình trạng sản xuất nhiều nhưng ít tạo ra giá trị cho đất nước. Việt Nam chưa có nhiều ngành kinh tế, doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả năng vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới. Trong khi đó, để hội nhập quốc tế, quốc gia nào có nội lực tốt thì mới cạnh tranh được với các nền kinh tế mạnh trên thế giới. Nếu chúng ta không chuẩn bị kỹ càng về nền tảng sản xuất thì sự hội nhập sẽ không mang lại kết quả như kỳ vọng. Chính vì vậy, Nghị quyết 59 có quan hệ mật thiết với Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị với quan điểm chỉ đạo: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Mặt khác, việc “nâng tầm” hội nhập quốc tế có quan hệ tương hỗ với việc tăng cường nội lực Việt Nam, với chính sách độc lập, tự chủ.
Đất nước đang đứng trước cơ hội lớn để vươn mình, nhưng thách thức cũng vô cùng to lớn. Những thành quả của hội nhập cho đến nay đã góp phần tích lũy thế và lực cho sự bứt phá tiếp theo. Tiếp nối tinh thần đó, Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị đánh dấu bước chuyển quan trọng của Đảng ta về tư duy và định hướng hội nhập quốc tế trong giai đoạn tới, tạo động lực đưa đất nước tiến tới đài vinh quang của độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn thịnh, phát triển trường tồn./.
Ths Nguyễn Duy Tâm